TỪ ĐÓ TA VỀ ...
- BÀNG LƯ
Người về mô
Thu vắng lá vàng!
16.10
BÀN VỀ GIAI THOẠI VÀ CÂU SẤM KỲ BÍ
CỦA DÒNG HỌ TRẦN ĐÌNH. Kỳ I
Khoảng
mươi năm trở lại đây, thuật phong thủy được mọi người chú ý. Từ việc xây
nhà, trổ ngõ đến đắp mả, dời mồ đêu nhất nhất tuân theo ý của thầy phong
thủy.Có cả cơ sở chuyên tư vấn phong thủy.Có doanh nghiệp đầu tư xây dựng, cho
lập tổ phong thủy riêng, tư vấn theo yêu cầu của khách hàng.Từ đó yếu tố phong
thủy dần có vai trò to lớn và đôi khi được đề cập đến như một thứ cứu cánh trong
đời sống tâm linh.
Phong thủy là
thuyết luận về sự ảnh hưởng của hướng gió,
hướng khí, mạch nước và được cho sẽ tạo ra cát hung, họa phúc, thọ yểu
trong đời sống con người.
Phong thủy chia làm
hai phần: Dương trạch và Âm trạch.
- Dương trạch:
Là nơi người sống làm nhà cửa, xây thôn lập xóm sinh sống. Dương trạch nếu
hài hòa với thiên nhiên, môi trường tốt đẹp, sẽ làm cho cuộc sống
con người an vui, hạnh phúc và phú quý.
- Âm trạch: Là
nơi người chết yên nghỉ, còn gọi là mồ mả. Người chết nếu được chôn vào
huyệt tốt về phong thủy thì con cháu nhiều đời sẽ hưng thịnh , phúc lộc dồi dào
...
"Ngôi
mộ kết phát của dòng họ Trần đình " -
Bài viết của GS Nguyễn Lý Tưởng (1) ra ngày 10/08/2015 cũng
bàn về hiện tượng này. Theo đó, có đến 13 đời Thượng thư Bộ Lễ trong gần
500 năm lịch sử của dòng họ Trần đình. Ngoài việc phát quan, họ này
còn phát đinh mạnh mẽ , có nhiều người là đại quan trong mỗi đời. Và
được lý giải bằng giai thoại kỳ bí về phong thủy.
Câu
chuyện này từng được mẹ tôi, cậu tôi đề cập vào những khi thuận tiện như
ngày kỵ giỗ, việc họ ,việc làng... Mẹ và cậu, gốc làng Hà Trung. Sau dời
về làng Hà An , xã Gio Sơn , huyện Gio Linh , tỉnh Quảng Trị. Là con cháu
đời thứ 14 của dòng họ Trần đình.
Mẹ năm nay 82 tuổi, tóc trắng phơ , da dẻ hồng hào , đẹp lão. Khí chất nóng
nảy, bộc trực vẫn còn...Nhìn mẹ nhai trầu bỏm bẻm , trầm ngâm phía trước hiên
nhà, nhiều khi chợt thấy thấp thoáng đâu đó chút dáng xưa , hồn vọng ...
Mẹ
mồ côi cả cha lẫn mẹ từ nhỏ. Sống và lớn lên với cậu cả ( tôi gọi là cậu Giáo -
anh ruột mẹ tôi, đã mất ). Thời đó ( trước và sau năm 1945) cả nước loạn lạc
cùng với dòng họ sa sút , nên mẹ không được học hành dù rất sáng dạ , trí
nhớ tới bây giờ ( 2016 ) vẫn cực tốt. Mẹ có khiếu văn nghệ, hát ru , hát ví rất
hay.Thuộc nhiều truyện thơ dân gian như Thoại Khanh - Châu Tuấn , Thám Ba cứu
chồng...
Nhớ
những đêm trăng của Huế, yên tĩnh nhẹ nhàng. Khi chiếc chiếu hoa mẹ trải
xuống thềm lấp loáng bóng cau đêm, đu đưa mát rượi, là mấy anh em tôi được
nghe mẹ hát, kể những truyện thơ dân gian và tất nhiên có lần mẹ kể chi
tiết về giai thoại và câu sấm kỳ bí của dòng họ Trần đình.
Mẹ kể:
Hồi
nớ, xưa lắm. Có một gia đình thật nghèo , gồm hai ông bà và một đứa con trai
sinh sống tại làng Hà Trung. Ông bà chất phát hiền lành.Bốn mùa lam lủ với rẫy
nương.
Một
hôm, có hai ông thầy địa lý người Tàu lỡ đường xin tá túc . Ông bà niềm
nở , tiếp đón. Nhà không có gì đãi khách , đành thịt con gà duy nhất để làm
cơm.Tối , ông bà nhường giường chiếu cho khách, còn cả nhà lót rơm ngủ trên nền
đất. Sớm dậy , hai vị khách trả tiền nhưng ông bà không lấy. Ái ngại, hai ông
thầy địa lý giả vờ bỏ quên một túi nhỏ vàng nén, rồi từ giã ra đi.
Được
một đoạn , hai ông thầy địa lý nghe tiếng người chạy vội phía sau, quay lại thì
nhận ra người con trai của ông bà ấy cương quyết trả lại túi vàng bỏ quên.Nhìn
cậu con trai cũng phúc hậu như ông bà cụ, hai vị thầy Tàu cảm động. Nên sau
nhiều ngày du sơn hí thủy, họ quyết quay lại trả ơn bằng cách gọi cậu con
trai ra chỉ cho một huyệt mộ và bảo: "Nếu dịch
lên một huyệt thì làm vua một đời, dịch xuống một huyệt thì làm quan nhiều
đời". Khi an táng bố, phải đợi bao giờ có người đội nón bằng đồng đi ngang
qua, thấy cá lên ngọn tre thì mới hạ huyệt! Và phán một câu sấm:
" Bao giờ núi nọ hết cây
Sông kia hết chảy, họ này hết quan."
Núi
nọ, theo mẹ là núi Cồn Tiên ( bây giờ gọi là độn Cồn Tiên - một đồi cát
không cây cối ). Và sông kia thì mẹ không biết tên .Lúc còn nhỏ mẹ chỉ
thấy là con lạch nhỏ, chảy yếu ớt qua làng.
Sau này đọc bài của
giáo sư N.L.T, câu sấm dài thêm:
"Bao giờ núi nọ hết cây
Sông kia hết chảy, họ này hết quan.
Bao giờ rắn sắt bò ngang
Tây kia kéo lại, hết quan họ này."
Câu
chuyện ly kì được kể tiếp:
".
Lúc ông bố mất, người con trai nhớ lời thầy địa dặn, quàng xác lại và
ngóng chờ. Từ sáng đến trưa, chỉ có người đội nón lá hay vải đi ngang
qua, tuyệt nhiên không thấy ai đội nón đồng, nón sắt. Chưa nói đến chuyện
phải hiểu như thế nào để gọi là con cá lên ngọn tre
nữa ! Quá trưa, bỗng trời đổ mưa. Một người mượn cái nồi đồng về, vì mưa
nên chụp nồi đồng lên đầu chạy ngang qua. Lại có đứa bé đi câu, bị mưa nên vội
về, vai ôm cần câu tre có con cá treo lủng lẳng trên đầu cần chưa kịp gỡ.
Cậu con trai cho rằng điều kiện thầy nêu đã ứng nghiệm và hạ huyệt
.
Khi
chuẩn bị đắp mộ ,trời bỗng mưa to , mây đen kéo về che kín ,sấm chớp dữ
dội khiến mọi người hoảng sợ bỏ chạy tán loạn. Sáng hôm sau , người con trai
cùng con cháu ra đắp mộ thì huyệt bố , mối đã đùn lên thành nấm đất to lớn,
vững chãi khác thường ( gọi là Thiên táng ).
Dòng
họ Trần đình, sau đó có người làm quan đến chức Thượng thư bộ Lại và xuyên suốt
13 đời từ đó. Đến giữa thế kỷ 20, khi Pháp cho người lên núi đốn cây và san lấp
con sông ở làng Hà Trung nhằm phục vụ cho dự án Đường sắt xuyên Việt đầu
tiên, chạy qua làng...Ứng với câu sấm : " Núi nọ hết cây, sông kia hết
chảy và con đường sắt ( rắn sắt ) bò ngang với sự hiện diện của người
Pháp" thì dòng họ Trần đình từ đó không còn ai " phát" về
đường quan lộc ,dù nhiều người học hành giỏi giang, đỗ đạt.
Lời
bàn
A.
Về Lịch sử: Căn cứ vào Đại Nam Thực Lục (2) và Bách khoa toàn
thư ( Wikipedia ), có thể khẳng định dòng họ Trần đình có nhiều người
, nhiều đời là đại quan từ thời chúa Nguyễn.
Theo GS. Nguyễn
Lý Tưởng, gia phả họ Trần đình do ngài Thượng thư Bộ Lễ Trần Đình Túc
(đời thứ 11) và con cháu đời sau tiếp ghi ( xin trích lại) :
1. Ngài thủy tổ tên là Trần Văn Đông vào đây đến nay đã 13
đời ( tính đến 1883), mở mang nghiệp trước, dìu dắt người sau..
.
Ngôi mộ tổ ,ngài
Trần Văn Đông - Một di tích lịch sử tại Gio Sơn , Gio Linh , Quảng Trị.
Ông Trần Văn Đông sinh ra ông Trần Văn Lại, Trần Công Lệ
và Trần Văn Nghinh.
2. Ông Trần Văn Nghinh (đời thứ hai) sinh ra
ông Trần Văn Khởi .
3. Ông
Trần Văn Khởi (đời thứ ba) sinh ra Trần Hữu Ý (tức Quang).
4. Ông
Trần Hữu Ý (đời thứ tư) sinh ra: Trần Hữu Chí, Trần Hữu Võ, Trần Hữu
Đệ.Kể từ ông Trần Hữu Chí (đời thứ năm) cháu nội ông Trần Văn Khởi (đời thứ ba)
thì dòng họ này bắt đầu phát quan.
5. Ông Trần
Hữu Chí ( đời thứ 5) - người làm quan đầu tiên của
dòng họ đến chức Quang Tiến Thận Lộc Đại Phu, Đại Lý
Tự Khanh, Cai Hạp Lệnh Sử, Văn Minh Hầu tên thụy là Thận Trực (
xếp vào bậc đại thần). Nhưng xem trong Đại Nam Thực
Lục tiền biên không thấy ghi.
Ngài
Trần Hữu Chí sinh ra: Trần Hữu Phúc, Trần Hữu Lộc, Trần Đình Ân, Trần Hữu Huệ,
Trần Hữu Hiến (đời thứ sáu).
6.Ông Trần
Đình Ân ( đời thứ 6) làm quan đến
chức “Tham Chính Chánh Đoán Sự, Tiết Chế Thủy Bộ Chư Dinh,” tước “Đôn Hậu
Công Thần” Đặc Tiến Trụ Quốc Kim Tử Vinh Lộc Đại Phu, Đại Lý Tự Khanh, Đông
Triều Hầu thụy Thuần Thiện.”
Ngài
có 12 người con trai: Đình Lang, Đình Nhậm, Đình Khánh, Đình Tiến, Đình Thuận,
Đình Thoàn, Đình Mão, Đình Cường, Đình Quê, Đình Vơi, Đình Xu, Đình Đệ.
7. Ông
Trần Đình Khánh (đời thứ 7) là con thứ ba của Trần Đình Ân, làm quan
đến chức “Quảng Nam Cai Bạ Danh Thế Hầu,” là người có tài ăn nói, lý
luận, viết văn... Trong 12 người con trai của Trần Đình Ân có đến 6 người làm
quan lớn. Ông Trần Đình Khánh mất khi mới 34 tuổi, được tặng Đặc Tiến Kim Tử,
Vinh Lộc Đại Phu, Thái Thường Tự Khanh, Thụy Thông Trí cũng còn gọi là “Danh
Thế Hầu.” Năm 1825, vua Minh Mạng tặng “Trung Hiếu chi thần.” Năm 1845, vua
Thiệu Trị tặng “Trung Hiếu Chi Thần” gia tăng “Liêm Minh Giản Trực Đoan Túc chi
Thần,” giao cho làng Hà Trung lập miếu thờ.
-Ông Trần
Đình Thuận ( đời thứ 7) cũng được phong chức Cai Bạ Phó Đoán Sự trông
coi Tướng Thần Lại Ty (Bộ Lại)... ( Đại Nam Thực
Lục tiền biên - viện Sử học -1962- trang 162/163 )
8. Ông Trần
Đình Ninh tức Hy (đời thứ 8) là con trai ông Trần
Đình Khánh,làm quan đến Cai Bạ tỉnh Bình Thuận.Về sau được thăng Hộ Bộ kiêm
Binh Bộ.” Ông được tặng tước Trụ Quốc Vinh Lộc Kim Tử Đại Phu, Chính Trị Thượng
Khanh, Tham Chính “Thức Lượng Hầu.”
Khi
mất, được tặng “Đôn Hậu Công Thần, Đặc Tiến Kim Tử Vinh Lộc Đại Phu,
Chánh Trị Thượng Khanh, Tham Chánh Thức Lượng Hầu” tên thụy “Cung Thận.”
Ngài
sinh được 10 người con trai: Đình Thận, Đình Bửu, Đình Hiến, Đình Úy tự Miên,
Đình Lân, Đình Khâm, Đình Khôi, Đình Khoan, Đình Niệm.
9. Ông Trần
Đình Thận (đời thứ 9) là con trai trưởng của ông Trần Đình Ninh (Hy)
làm Quảng Bình Dinh Ký Lục, được thăng “Triều Liệt Đại Phu, Chánh Dinh Tri Bạ,
Duệ Đức Hầu” là người học hành thông thái được chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát
(Thế Tông) rất tin cậy.
Ngài
sinh được 9 người con trai: Đình Lộc, Đình Hậu, Đình Anh, Đình Đệ, Đình Hoài,
Đình Trí, Đình Ngọa, Đình Thiêm, Đình Trưng (đời thứ mười).
10. Ông Trần
Đình Trưng tức Ngãi (đời thứ 10), là con trai thứ
chín của ông Trần Đình Thận, giữ chức Hiệp Trấn Thái
Nguyên, Hiệp Trấn Phú Yên được tặng “Trưng Tường Hầu,” sau thăng “Trung Phụng
Đại Phu, Đô Sát Viện Tả Phó Đô Ngự Sử” khi mất, được cho tên thụy là “Trang
Khải.”
Ngài
sinh được 4 người con trai: Đình Khanh, Đình Túc, Đình Hanh, Đình Đắc .
11.
- Ông Trần Đình Túc (đời thứ 11) là con trai thứ hai của ông Trần
Đình Trưng, làm quan đến Tổng Đốc Hà-Ninh (Hà Nội, Ninh Bình), Thượng Thư Bộ
Lễ, Khâm Sai Đại Thần, Hiệp Biện Đại Học Sĩ .
- Ông Trần Đình Hanh (con trai thứ ba của ông Trần
Đình Trưng) làm quan Tri phủ Vĩnh Tường.
Ông
Trần Đình Túc (đời thứ 11) sinh được 11 người con trai: Đình Thiện, Đình Thuật,
Đình Trần, Đình Triệt, Đình Phát, Đình Võ, Đình Vỹ, Đình Thản, Đình Dậu, Đình
Viên, Đình Thành.
12.-
Ông Trần Đình Tân (đời thứ 12) con trưởng ông Trần Đình Khanh (anh của
Trần Đình Túc) làm đến Suất Đội Thủy Sứ (Hà Nội) là một chức quan võ ở địa
phương.
- Ông Trần Đình Thiện (đời thứ 12) là con trưởng ông
Trần Đình Túc làm đến Tri huyện Trấn Ninh.
- Ông Trần Đình Phát (đời thứ 12) là con trai thứ 6 của
ông Trần Đình Túc. Ông Trần Đình Phát làm quan dưới thời vua Thánh Thái và Duy
Tân, lên đến Thượng Thư Bộ Hộ, sung Phụ Chính Đại Thần, Hiệp Biện Đại Học Sĩ,
tước “Lễ Môn Tử. Ông mất năm 1914 thời vua Duy Tân.
- Ông Trần Đình Thản (đời thứ 12) là con trai thứ 8 của
ông Trần Đình Túc làm quan Tri huyện Phú Vang (Thừa Thiên), Tri huyện Tuy Phong
(Phan Thiết) tước Hồng Lô Tự Khanh rồi về hưu trí.
- Ông Trần Đình Viên (đời thứ 12) là con trai thứ 10 của
ông Trần Đình Túc, làm chức quan nhỏ, Hàn Lâm Viện Điển Tịch tại
Quảng Nam.
13. -
Ông Trần Đình Đống ( Thị Lang) và ông Trần Đình Kiểm (Tri
Phủ) là con của ông Trần Đình Phát (đời thứ 12).
- Ông Trần Đình Khuyến (đời thứ 13) là người
cuối cùng của dòng họ Trần đình "phát" về đường quan lại. Ông sinh
năm 1885, học trường Hậu Bổ (Huế), làm quan đến chức Quản đạo Ninh Thuận và Tri
phủ ở các phủ Bồng Sơn (Bình Định) và Anh Sơn (Nghệ An).
Anh Trần Trung- cháu đời thứ 15 của họ Trần đình.
Nhìn anh,vẫn còn đó nét oai nghiêm ,quắc thước của
tổ tiên!
Nhận
xét:
Dòng họ Trần đình có mấy người làm Thượng Thư? Nếu gọi chính
danh thì có 2 vị Thượng Thư: Thượng Thư Bộ Lễ Trần Đình Túc và Thương Thư Bộ Hộ
Trần Đình Phát. Xét về phẩm hàm ,chức Tham Chính là Tòng nhất phẩm ( cụ Trần Đình
Ân và Trần Đình Ninh), chức Thượng Thư là Chánh nhị phẩm ( theo Quan chế triều
Nguyễn- Wikipedia), nên chức Tham Chính cao hơn Thượng Thư 1 bậc. Vậy có thể
nói họ Trần đình có 4 vị Thượng Thư và
1 vị giữ chức phó của Thượng Thư ( Thị Lang - cụ Trần Đình
Đống). Nếu gọi là đại quan, chỉ có 8 đời và 20 vị ( ngài Trần Đình Ân có
tới 6 người con là đại quan - theo Gia phả ). Xét thêm đời thứ 13 , họ Trần
đình có đến 9 đời , 23 vị làm quan. Phúc họ Trần đình tới đó?
Tôi chỉ được xem phần tiền biên của Đại Nam Thực Lục viết về 9
đời chúa Nguyễn, thấy có ghi lại hoạt đông ,công lao của các vị Đình Ân, Đình
Khánh, Đình Thuận , Đình Ninh ( Hy), Đình Thận ,đều được Chúa tin cậy phong
tước Hầu ( một trong ngũ tước: Công, Hầu, Bá, Tử, Nam.), xếp vào bậc đại
thần.Trong đó đặc biệt ngài Tham
Chính Chánh Đoán Sự Trần Đình Ân (1626-1706) được
lịch sử lưu danh trong sự nghiệp phò Chúa ở 2 điểm :
* Dâng kế
sách “Dĩ dư phá dư”
(Lấy rỗng phá rỗng) giúp chúa Nguyễn Phúc Thuần đánh bại quân Trịnh
đang thế rất mạnh ở lũy Trấn Ninh vào tháng 8 năm Nhâm tý (1672) ( Đại Nam
Thực Lục tiền biên - viện Sử học -1962- trang 115/116 )
* Năm 1703, ngài xin từ quan. Theo lệnh Chúa, trước
khi về quê , ngài chọn con rể Nguyễn Khoa Chiêm ( 3), và
nói với Chúa Nguyễn : " Đây là người đại dụng " . Được Chúa tin dùng,
phong tước từ vị Bảng trung tử lên Bảng trung hầu, thay ngài
giữ chức đầu triều Tham chánh chính đoán sự . Trong khi đó, con và cháu
có trên 10 người cùng theo phò Chúa, nhiều vị là đại thần đảm đương trọng
trách, nhưng ngài không tiến cử ai. ( Đại Nam Thực Lục tiền biên - viện Sử học
-1962- trang 186/187).
Và người thứ 2 của họ Trần đình là ngài Thượng thư Bộ Lễ Trần Đình Túc ( 1816-1899 ), tổ đời thứ 11 được
Bách khoa toàn thư ghi:
" Là đại thần nhà Nguyễn (thời Tự Đức),
từng giữ các chức Tổng đốc Hà Ninh (Hà Nội, Ninh Bình),
Hiệp biện Đại học sĩ. Ngài Trần Đình Túc là một trong những đại thần chủ chốt
trong việc nghị hòa với người Pháp,
khi Pháp xâm lược Việt Nam."
|
Ngài Thượng Thư Bộ Lễ Trần Đình Túc |
Ngài có những đề nghị mở mang như khai khẩn đất hoang tại Thừa
Thiên và Quảng Trị, tăng thêm ruộng đất cho dân; mở cửa giao thương thay vì bế
quan tỏa cảng để có tiền mua sắm máy móc, vũ khí, cho thanh niên du học để tiếp
thu văn minh khoa học, kỹ nghệ, cơ giới, canh tân đất nước; trao đổi kinh
nghiệm với phái đoàn Triều Tiên đồng hoàn cảnh nước nhỏ trước họa xâm lăng, lấn
át của các cường quốc.
Khi đi sứ Hương Cảng về, Ngài dâng sớ
tâu vua xin mở cửa biển Trà Lý thuộc tỉnh Nam Định nay là Thái Bình để mở mang
việc giao thương cho dân chúng và ngoại quốc vào buôn bán, nhất là với nước Anh
để làm thế quân bình ảnh hưởng giữa Anh và Pháp, tránh việc Pháp muốn sử dụng
sức mạnh quân sự độc quyền xâm chiếm đất nước, nhưng vua do dự đưa ra triều
đình hội nghị.
Trong triều có nhiều vị quan chức tước cao hơn và có nhiều vị
thủ cựu nên đề nghị bị bác bỏ bất thành. Sử sách cũng có ghi rõ.
Ngài còn sáng tác bộ Tiên Sơn chủ nhân toàn tập ( 4), gồm
có : Thi, Văn, Sớ, Biểu, Thơ Giản. Cộng tất cả 19 quyển.( theo Trần Đình
Tài - Non Nước Bình Khê)
( Còn tiếp )
16.09 BÀN VỀ GIAI THOẠI VÀ
CÂU SẤM KỲ BÍ
CỦA DÒNG HỌ TRẦN
ĐÌNH. Kỳ II
B. Về giai
thoại và câu sấm:
Không
chỉ có họ Trần đình, trong lịch sử Việt Nam những dòng họ danh tiếng khác đều
có những giai thoại,câu sấm ( gọi chung là giai thoại) kỳ bí chung một mô-tip
.Mô- típ đó, có thể liệt kê theo trình tự như sau:
1-
Chủ nhân là người nghèo khó, hiền lành , phúc hậu.
2.
Thầy phong thủy ( địa lý) xuất hiện.
3-
Nhờ đức cao, phúc dày nên được an táng vào huyệt mộ cực tốt về phong thủy.
4-
Hiện tượng "Thiên Táng" hay ngôi mộ tổ kết.
5-
Con cháu sau đó đỗ đạt ,làm quan ,giàu sang phú quí
nhiều đời.
6-
Xuất hiện những câu sấm kỳ bí .
Những giai thoại đó tồn tại trong dân
gian theo kiểu: "Tương truyền....". Không xác định tác giả ,
thời điểm ra đời và tuồng như ai cũng có thể tham gia thêm thắt câu chuyện .
Giai thoại luôn gắn liền với các sự kiện lịch sử, hiện tượng địa lý ( gọi
chung là sự kiện lịch sử). Mối quan hệ giữa giai thoại và các sự kiện lịch sử,
là mối quan hệ theo kiểu quả trứng và con gà. Quả trứng có trước hay con gà có
trước? Chẳng ai xác định được. Chỉ thừa nhận rằng, giai thoại đã khiến cho lịch
sử trở nên sinh động, thú vị hơn .Làm thỏa mãn tính hiếu kỳ dân
gian. Phù hợp với tư tưởng " Mệnh Trời" của Nho giáo, vốn được xem
chuẩn mực trong xây dựng, phát triển đạo đức xã hội ở các triều đại phong
kiến. " Bất tri mệnh ,vô dĩ vi quân tử" ( Không hiểu mệnh trời ,
không đáng gọi quân tử) Vì vậy, ngoài dân gian lưu truyền, giai thoại còn
được các nhà sử học, các bậc túc Nho xưa ghi chép cẩn thận.
Câu chuyện 1:
Ngài Thượng Thư, Hiệp Biện Đại học Sĩ Trần Đình Túc ghi trong gia
phả :
“Sự
trạng ngài Trần Văn Khởi: Ngài vốn người thành thật, chăm việc điền viên. Một
hôm có hai thầy địa lý, một người là Lê Phúc Hoàn, người làng Xuân Mai, tỉnh
Nghệ An; người thứ hai là Trương Đình Thận, người làng Cao Lao, tỉnh Quảng
Bình, nhân đi coi địa lý thường nghỉ lại nhà ông. Đến khi ra đi, hai thầy ham
coi sơn thủy vui cảnh lâm tuyền, bỏ quên túi bạc lại. Hai ông bà lật đật đi
tìm, đưa trả túi bạc lại. Hai ông thầy cảm phục tấm lòng trung hậu nên chỉ cho
chỗ đất tốt ở xứ Lãng Phao và có dặn rằng: Ngày sau ông bà trăm tuổi, bất luận
ngày tháng nào, cứ theo hướng ấy mà hợp táng, thì con cháu đời đời hưởng phúc
ấm no vô cùng. Nói rồi, hai thầy từ biệt ra đi. Sau y phép ‘hợp táng’ ấy là đất
phát phúc họ ta kể từ đó.”
Mô-tip câu chuyện gồm có:
1. Ngài là người thành
thật, chăm chỉ.
2. Xuất hiện 2 thầy địa
lý ( dù không phải người tàu).
3. Nhờ lòng trung hậu
nên có huyệt tốt và hợp táng.
4. Con cháu làm quan
nhiều đời...
Câu chuyện 2:
Ngôi mộ Triệu tổ Nguyễn Kim
Trong Đại Nam Thực Lục
tiền biên, bản dịch viện Sử học- 1962, trang 27 có ghi việc an táng Triệu tổ (
cụ tổ Nguyễn Kim ) theo khuôn mẫu trên: " Tương truyền huyệt đào trúng hàm
rồng, khi đặt quan tài xuống thì cửa huyệt ngậm lại. Bỗng trời nổi mưa gió sấm
sét, mọi người sợ chạy. Đến lúc tạnh trở lại thì đá núi vùi lấp, cỏ cây xanh
tốt, không nhận được là táng nơi nào nữa. Đến nay có việc ( cúng tế) chỉ trông
vào núi tế vọng thôi."
Mô-tip câu chuyện gồm có:
1-
Huyệt mộ là hàm rồng.( cực tốt về phong thủy)
2- Hiện
tượng "Thiên Táng" .
3- Dòng họ
sau đó phát 9 đời chúa và 12 đời vua
( Hơn 500 năm ).
Câu chuyện 3:
Họ Ngô 10 đời đỗ đại khoa.
Tại làng
Vọng Nguyệt xã Tam Giang, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh có dòng
họ Ngô 10 đời đỗ đại khoa.Tương truyền hơn
500 năm trước, một thầy địa lý Trung Hoa chỉ cho cụ tổ họ Ngô lệnh tộc là cụ
Ngô Nguyên đến một khu đất tốt hướng dẫn xây nhà thờ họ để con cháu sau này
hiển vinh. Địa điểm đặt nhà thờ ứng với 2 câu sấm của thầy địa lý là “vườn
quýt, ao Lác”. Địa điểm đặt nhà thờ tổ họ Ngô trong giai thoại , hiện vẫn còn
trên nền vườn quýt, ao Lác xưa trong làng Vọng Nguyệt.
Câu chuyện được kể
tiếp về cụ tổ bà Chu Thị Bột (tức cụ Thí Thóc, người ban phát thóc cứu giúp cho
dân nghèo - vợ cụ Ngô Nguyên). Tương truyền cụ tổ bà mất trong một đêm mưa to
gió lớn nên con cháu phải quàn tạm ở đầu làng để sớm mai chôn cất. Lạ thay chỉ
sau một đêm mà mối đùn đất quanh thi hài thành một đống lớn. Con cháu cho rằng
trời cho mảnh đất thiêng nên cứ thế đắp thành mộ, gọi là mộ thiên táng. Chính
vì được thiên táng nên cụ tổ bà càng thêm linh nghiệm phù hộ cho con cháu họ Ngô
được hiển vinh lâu dài trên đường học vấn.
Khi cụ tổ bà Chu Thị Bột
qua đời, hai con trai mỗi người một chí. Con trưởng là cụ Ngô Ngọc (1451-1519)
ở lại Vọng Nguyệt tu chí học hành, con thứ là cụ Ngô Định di cư vào mạn Diễn
Châu (Nghệ An) lập nghiệp, cũng học hành chăm chỉ.
Từ đó con cháu họ Ngô
phát về đường khoa bảng.
1. Cụ Ngô
Ngọc đỗ đệ nhị giáp Tiến sỹ xuất thân (Hoàng
giáp). Khoa thi Đinh Mùi niên hiệu Hồng Đức 18 (1487),
2. Cụ Ngô
Nhân Hải (chưa rõ năm sinh, mất - con cụ Ngô Ngọc) đỗ đệ nhị giáp Tiến
sỹ xuất thân (Hoàng giáp) khoa thi Mậu Thìn (1508).
3.Cụ Ngô
Nhân Trừng (1539-1593, cháu nội cụ Ngô nhân Hải) đỗ đệ nhị giáp Tiến
sỹ xuất thân (Hoàng giáp) khoa thi Canh Thìn (1580);
4.Cụ Ngô Nhân Triệt (chưa
rõ năm sinh, mất , con trai cụ Ngô nhân Trừng) đỗ đệ tam giáp đồng Tiến sỹ xuất
thân khoa thi Đinh Mùi (1607);
5.Cụ Ngô
Nhân Tuấn (1595-?, Con trai cụ Ngô Nhân Triệt) đỗ đệ tam giáp đồng
Tiến sỹ xuất thân khoa thi Canh Thìn (1640).
Nghe nói nhánh thứ 2 của họ Ngô lệnh tộc đứng đầu là cụ Ngô Định
di cư vào mạn Diễn Châu (Nghệ An) cũng học hành chăm chỉ và cũng có 5 đời đỗ
Tiến sỹ. Không thấy ghi tên cụ thể.
Mô-tip câu chuyện gồm có:
1- Chủ nhân là người có phúc phận.
2. Thầy phong thủy ( địa lý) xuất hiện.
3- Nhờ đức cao, phúc dày nên được nơi thờ tự gia tộc cực tốt về phong thủy.
4- Hiện tượng "Thiên Táng" cụ tổ bà.
5- Con cháu sau đó đỗ
đạt ,làm quan đến 5 đời( hay 10 đời).
6- Xuất hiện câu sấm kỳ bí " Vườn quýt, Ao Lác"
Nói
về họ Ngô tộc Nói về họ Ngô lệnh tộc , nhà bác học Phan huy Chú phải thốt
lên:" Họ Ngô lệnh tộc làng Vọng Nguyệt kể từ cụ Ngô Ngọc đỗ chính bảng
thời Hồng Đức , cả thảy có 5 đời đỗ tiến sĩ thực là hiếm có xưa nay! " (
Theo Thanh Tú - Bắc Ninh Online).
Câu
chuyện 4: Gia đình họ Nguyễn nhân có 5 anh em đỗ đại khoa
Sử sách ghi
chép gia đình họ Nguyễn Nhân là gia đình thuộc làng Kim Đôi, xã Kim Chân, thành
phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh có 5 anh em ruột lần lượt trở thành tiến
sĩ lúc dưới tuổi 20, chỉ trong vòng chín năm từ 1466-1475:
1.Cụ Nguyễn Nhân Thiếp đỗ Hoàng Giáp,
năm 1466 khi mới 15 tuổi. Ông làm quan tới chức Thượng thư bộ Lại.
2.Cụ Nguyễn Nhân Bỉ đỗ đệ tam giáp
đồng tiến sĩ xuất thân năm 1466, khi 19 tuổi. Ông từng được cử đi sứ nhà Minh
và sau này được thăng lên làm Thượng thư bộ Binh. Ông cũng là thành viên trong
hội Tao Đàn, (hội Thơ - PV) do vua Lê Thánh Tông lập ra.
3.Cụ Nguyễn Nhân Phùng đỗ đệ tam giáp đồng tiến
sĩ xuất thân năm 1469 khi 19 tuổi. Làm quan đến chức Hàn lâm viện Thị độc
chưởng viện sự kiêm Lễ bộ tả thị lang. Ông cũng là thành viên trong hội Tao Đàn
của vua Lê Thánh Tông.
4.Cụ Nguyễn Nhân Dư đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ
xuất thân năm 1472 khi mới 17 tuổi.Ông làm quan đến chức Hiến sát sứ.
5.Cụ Nguyễn Nhân Đạc đỗ đệ tam giáp đồng
tiến sĩ xuất thân năm 1475 khi 18 tuổi. Ông làm quan đến chức Hàn lâm viện Hiệu
thảo.
Riêng cụ Nguyễn Nhân Thiếp lại có
tới 3 người con đỗ tiến sĩ là Nguyễn Hoành Khoản (đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ
xuất năm 1490), Nguyễn Nhân Huân (đỗ bảng nhãn năm 1496), Nguyễn Nhân Kính (đỗ
đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất năm 1496).Và nghe nói dòng họ Nguyễn có 18 vị
tiến sĩ ,trong đó có tới 7 vị làm tới chức Thượng thư.
Vua
Lê Thánh Tông còn phong gia đình Nguyễn Nhân 8 chữ vàng là " Kim Đôi gia
thế, chu tử mãn triều" ( Dòng họ Kim Đôi áo đỏ,áo tía đầy triều).
Và để giải thích việc đỗ đạt kỳ lạ này ,tại làng này tồn tại một
câu chuyện kỳ lạ không kém:
Tương truyền rằng, khi cụ Hay ( mẹ của
5 tiến sĩ ) nhặt được túi vàng của người Tàu bỏ rơi . Mấy ngày sau cụ thấy có
một người vừa khóc lóc, vừa như tìm kiếm một thứ bị mất. Hỏi ra mới biết là
người đó đang tìm túi vàng bị rơi cách đây vài ngày. Cụ Hay đem trả lại cho
người đó túi vàng. Mấy năm sau người bị mất túi vàng đó trở lại
Việt Nam với một thầy địa lý người Tàu ( lại thầy địa lý người Tàu).
Họ trả ơn cụ bằng cách tìm một khu đất tốt để cụ táng mộ ông bà, cha mẹ vào đó
và nói rằng, con cháu sau này nhất định sẽ được hưởng lộ.
Lúc bấy giờ thầy
địa lý Tàu có tìm tới hai khu đất quý, một là khu đất đế vương (nhưng chỉ phát
trong một đời) và một khu đất trường trường công khanh ( tương tự câu chuyện
huyệt mộ tổ họ Trần đình). Thầy địa lý Tàu cho cụ Hay lựa chọn và cụ đã chọn
mảnh đất để sau này con cháu nối nhau làm nên sự nghiệp. Mảnh đất đó hiện nay
thuộc xã Phao Sơn, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương và nay vẫn còn ngôi mộ mà cụ
Hay táng cha mẹ mình ở đó. Hiện tại, khu đất đó có 3 ngôi mộ là mộ của cụ Hoàng
Phụng Thế (ông nội cụ Hay), cụ Hoàng Chân Bảo (bố cụ Hay) và Nguyễn Nhân Thiếp
(con
trai cụ Hay).
Mô-típ câu chuyện gồm có:
1- Chủ nhân là người hiền lành , phúc hậu.
2. Thầy phong thủy ( địa lý) xuất hiện.
3- Nhờ đức cao, phúc dày nên được an táng vào huyệt mộ cực tốt về phong
thủy.
4- Con cháu sau đó đỗ
đạt ,làm quan nhiều đời.
Câu chuyện 5:
Dòng họ Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
Tương truyền rằng: tại làng Đại Phong
(tục danh Đợi), huyện Phong Lộc (sau đổi thành huyện Lệ Thủy), tỉnh Quảng
Bình, ông nội cụ Ngô Đình Diệm là cụ Ngô Đình Dinh (gốc ở huyện Quảng Ninh)
nghèo lắm, vợ chết sớm. Xin đến tạm trú làng Đại Phong với một đứa con trai mới
6 tuổi, được làng cho làm sai dịch ở đình làng. Mỗi khi có việc làng thì đun
trà rửa chén… Chẳng may do bệnh tật đói rét mà chết. Làng cho trai đinh bó
chiếu chèo thuyền đưa lên núi chôn. Đến bến Kéc (chân núi An Mã) thì trời sập
tối. Lúc trai đinh khiêng xác lên một đoạn thì nghe tiếng hổ gầm, sợ quá khoét
vội một chỗ lấp tạm định bụng sáng mai lên chôn lại. Hôm sau chèo thuyền lên
thì mối đã đùn thành gò lớn. Các bô lão cho là thiên táng nên để vậy. Còn đứa
con trai 6 tuổi mồ côi cha được một cố đạo người Pháp ở làng Mỹ Phước nhận
nuôi. Đứa con trai đó sau này là Thượng Thư trong triều Nguyễn, ông Ngô Đình
Khả thân sinh ông Ngô Đình Diệm.
Mô típ câu chuyện gồm có:
1- Chủ nhân là người nghèo khó.
2- Hiện tượng "Thiên Táng" hay ngôi mộ tổ kết.
3- Con cháu sau đó đỗ
đạt ,làm quan.
Và dòng họ Ngô đình phát quan từ đó.
1- Cụ Ngô Đình
Khả - Thượng Thư Bộ Học (1898 ) ,Hiệp tá
Đại học sĩ ( 1902 ) triều vua Thành Thái.
2-Cụ Ngô
Đình Khôi (1885-1945) -Tổng đốc Quảng Nam, triều
Nguyễn.
3-Cụ Ngô
Đình Diệm ( 1901 hay 1897? - 1963.) - Thượng Thư
Bộ Lại triều Bảo Đại. Tổng Thống Đệ Nhất VNCH ( 1955 ).
4-Cụ Ngô
Đình Thục (1897-1984) - Đức Tổng Giám mục.
5-Cụ Ngô Đình
Nhu (1910-1963 ) - Cố vấn Tổng thống VNCH
6-Cụ Ngô Đình
Cẩn (1912-1964) - Cố vấn cao nguyên Trung
phần VNCH
7-Cụ
Ngô Đình Luyện (1914-1990) - Luật sư và Đại sứ VNCH tại
Anh, Hà Lan, Bỉ.
( Theo Tạp
chí Khoa Học Huyền Bí số 1B(75) ngày 20 tháng 1-1975 )
Sông Kiến Giang, đoạn ngang qua ngôi mộ cụ Dinh |
Ngoài ra có giai thoại về Ngôi mộ tổ họ Ngô Đình”
ba lần bị chạm long mạch, làm con cháu lao đao rồi tuyệt tự.
Về phương diện phong thủy, ngôi mộ kể trên đã vào vị trí
trung điểm của núi sông Lệ Thủy:
- Phía Nam có núi An Mã dẫn về Bến Trấm, Bến Đẻ.
-
Phía Tây có núi Đầu Mâu hướng về biển Hạc Hải.
-
Phía Đông Bắc long mạch theo sông Kiến Giang lên Tróc Vực. Ngôi mộ được kết
phát nhưng không có người viếng thăm.
Theo một vị sư già trong đoàn chư
tăng về làm lễ cầu siêu cho Lễ thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh (chôn gần đó),thì vùng
đất này về Dương trạch là thế đất sinh vương. Hai làng Đại
Phong và An Xá ( làng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp ) nằm trên vùng đất này.
Về Âm trạch chí ít cũng sinh công hầu , khanh tướng. Vì là vùng đất
thiêng nên ngoài mộ chí họ Ngô, còn có họ Võ ,họ Hoàng ( Hối
Khanh) họ Nguyễn (Hữu Cảnh).Tiếc thay, vùng đất bị cày xẻ dọc ngang , đào kênh
dẫn thủy bởi phong trào khai hoang Bến Tiến. Trong
bài " Quảng Bình quê ta ơi! " của nhạc sĩ Hoàng Vân có câu: “Có ai về
Đại Phong, xin vô ghé thăm vùng Bến Tiến. Taу
cuốc khai hoang đã đẩу lùi quá khứ nghèo nàn” .
Ngôi mộ tổ bị cắt đứt long mạch, khiến con cháu lao đao và dòng họ Ngô tuyệt
tự.( Theo Lệ Thủy- Địa linh nhân kiệt)
|
|
Hói làng Đại Phong - một trong những cách trấn yểm long mạch |
|
|
|
Câu chuyện kể rằng thủa xa xưa, năm 1530, nhà Mạc có 4 vị quan
đầu triều, thì 3 vị là người tổng Đại Phong. Mạc Đăng Dung sai thầy địa lý xem
thế đất Đại Phong thấy hình dáng chim phượng hoàng,cho rằng thê đất phát đế
vương, nếu không kịp yểm thì có cơ lấn át cả triều đình. Mạc Đăng Dung cho đào
một con mương cạn dài từ Mũi Viết để “mổ diều” cho phụng chết. Đến thời nhà Lê,
thầy địa lý lại phán, phụng bị nhà Mạc mổ diều nhưng chưa chết, đình Đại Phong
dựng nơi đầu phụng nên làng này vẫn có khí đế vương. Đất ấy từ xưa đến nay đã
có nhiều quan to văn võ. Đại tướng Võ Nguyên Giáp quê Lộc Thủy nằm trong vùng
cánh phượng. Thuật phong thủy cho rằng, Âm trạch yên ổn, con cháu sẽ phúc
lộc và ngược lại sẽ bị tổn hại nếu nhẹ . Nặng thì tuyệt tự. Và qua câu chuyện,
ta thử suy ngẫm thực hư xem.
- Chạm long mạch lần 1 (1939 ): Nhà tư sản
lúa gạo người Đồng Hới, tên là Paul Ngọc, đã mua vùng đất Ba Canh, dưới chân An
Mã để canh tác. Ba Canh không phải vùng màu mỡ thuận lợi để sản xuất lúa gạo
nên Paul Ngọc đã cho đào mương dẫn thủy làm chấn động mạch khí. Mặc dầu việc
thủy lợi dở dang nhưng liền đó Ngô Đình Diệm bị Bảo Đại cách chức Thượng thư Bộ
Lại thu hồi tất cả phẩm trật huy chương vì trái mệnh triều đình chống đối Hoàng
đế. Cùng với sự thất sủng của ông Diệm, ông Ngô Đình Khôi đang làm Tổng đốc
Quảng Nam bị viên Phó Toàn quyền Nouailletas gây khó.
- Chạm
long mạch lần 2 (1944 ): Paul Ngọc mời được một kỹ sư canh nông
Nhật và tiếp tục công trình dang dở. Liền đó, ông Ngô Đình Khôi, Tổng đốc Quảng
Nam cùng con trai Ngô Đình Huân bị thủ tiêu năm 1945. Khi đó việc thủy lợi của
Paul Ngọc lại dang dở lần nữa do Đồng minh đánh Nhật, mọi việc đều đình đốn,
các kênh dẫn thủy nhờ thời gian yên ắng đã được đất bồi lại, long mạch được hàn
gắn phần nào. Ông Võ Nguyên Giáp (đồng hương với họ Ngô) Bộ trưởng Nội vụ và
ông Vũ Đình Hòe Bộ trưởng Giáo dục CP Lâm Thời, ký sắc lệnh số 21 ngày
08/9/1945 bổ nhiệm ông Ngô Đình Nhu làm giám đốc Nha lưu trữ công văn và Thư
viện toàn quốc. Ông Nhu từ chối. Năm 1951, ông Diệm sang Mỹ, ở New Jesey vận
động cho những mục tiêu chính trị riêng.
- Chạm long mạch lần 3 (1961): HTX Đại Phong xây dựng lá cờ đầu nông nghiệp, khai
hoang Bến Tiến, đào kênh đẫn thủy, đào hầm hào ở chân đồi An Mã. Việc hành
quyết ông Diệm, ông Nhu thì ai cũng rõ. Ngô Đình Cẩn đang ở Huế, nghe tin anh
bị đảo chính tá túc vào nhà thờ dòng Chúa Cứu Thế ngày 02/11/1963 nhưng không
thoát, tới ngày 16/4/1964 bị xử bắn. Ông Ngô Đình Luyện thoát vì đang ở London.
Ông Ngô Đình Thục phải lưu vong, sau đó ông đã vi phạm việc tấn phong Giám mục
bất hợp thức, được giải vạ năm 1984 trước khi mất vài tháng. Các phần mộ gia
đình họ Ngô ở Sài Gòn cũng không được yên, phải di dời tới nơi mới như hiện
nay. (
Theo Lệ Thủy- Địa linh nhân kiệt)
Câu chuyện chạm long mạch họ Ngô cũng
tương tự câu chuyện chạm long mạch ngôi mộ cụ tổ khiến sự nghiệp ba anh
em nhà Tây sơn Nguyễn Huệ đang ở
đỉnh cao , thân thế lẫy lừng, bỗng lụi tàn nhanh chóng và tuyệt tự.
(
theo Tử Vi và tướng Số - Facebook)
Lời
kết:
Nói như GS. TS Ngô Đức Thịnh - viện
trưởng viện Nghiên cứu văn hóa dân gian : Những câu chuyện nêu trên
chỉ là " những giai thoại dân gian". Mà đã là dân gian ,câu
chuyện tồn tại nhờ vào truyền miệng, rồi
có thể thêm bớt chút yếu tố tâm linh, thần thánh hóa phần nào câu chuyện ,nhằm
thỏa mãn nghe và giải thích các hiện tượng trên.
Tâm hồn con người Việt Nam cứ như nghìn vạn cánh chim, bay bổng
thênh thang trên những cánh đồng bát ngát. Sức thi vị tưởng vô cùng.Người nghệ
sĩ Việt Nam nhiều không đếm hết, từ dân dã đến hàn lâm. Nguồn nghệ sĩ dân
gian là vô tận, từ đời này sang đời khác, không dứt không nguôi
. Họ để lại cho đời cả kho tàng văn
hóa dân gian đồ
sộ, phong phú và cực kỳ quý giá!
Yếu tố lịch sử và câu chuyện vẫn dựa vào nhau như Con gà -
quả trứng. Không đủ cứ liệu để có độ tin cậy, cũng như không đủ cứ liệu để bác
bỏ hoàn toàn. Các hiện tượng lạ thường, đầy yếu tố tâm linh vẫn còn đó
trong đời sống chúng ta. Người xưa không hẳn vô lý, khi ghi chép lại. Như
ngài Thượng Thư - Hiệp biện Đại học sĩ Trần Đình Túc trong Gia phả; các vị đại
thần chủ biên trong Đại Nam Thực Lục cho con cháu nghìn sau...
(1) GS. Nguyễn Lý Tưởng: Sinh năm 1939 ,tại Quảng
Trị. Là Giáo sư Trung học. Sau năm 1975 định cư tại Mỹ. Ông viết văn , làm thơ,
biên khảo và dịch thuật. Các tập truyện biên khảo đã in ấn như: Thuyền ai đợi bến
Văn Lâu, Đưa em tới chốn nhà Hồ, Đại Nam Liệt Truyện Tiền Biên ( dịch thuât)...
(2) Đại Nam thực lục : là bộ biên niên sử Việt Nam viết
về triều đại các chúa Nguyễn và các vua nhà
Nguyễn. Đại Nam thực lục gồm 584 quyển, viết bằng chữ Hán thể văn
ngôn và ghi chép các sự kiện lịch sử tới năm 1925 (không bao
gồm vua Bảo Đại).
Ban đầu, bộ sách mang tên "Đại Nam thật lục" . Tới đời
vua Thiệu Trị, chữ “ thật” bị đổi và đọc là "thực", vì kỵ húy với tên của chính thất của vua Minh
Mạng là Tá Thiên Hoàng hậu, thân mẫu của vua Thiệu
Trị.
Đại
Nam Thực lục Chính biên ghi chép
các sự kiện lịch sử từ khi Nguyễn
Ánh làm chúa (1778) đến đời Đồng Khánh (1887), và sau này được viết thêm đến
đời vua Khải Định (1925).
Cả hai phần Tiền biên và Chính biên của bộ
sử Đại Nam thực lục được soạn bắt đầu từ năm 1821 (năm Minh
Mạng thứ hai), sau 88 năm đến năm 1909 mới cơ bản hoàn thành (gồm toàn
bộ phần Tiền biên và 6 kỷ đầu phần Chính biên).
(Theo Wikipedia)
(3) Họ Nguyễn
khoa : Ông tổ họ Nguyễn Khoa, là cụ Nguyễn
Đình Thân (1553-1633), vốn người ở làng Trạm Bạc, huyện An Dương,
phủ Kinh Môn,
trấn Hải Dương (nay là tỉnh Hải Dương).
Cụ Thân là
tướng trải qua hai triều chúa Nguyễn Hoàng và Nguyễn Phúc Nguyên. Cụ Nguyễn Đình Khôi (1594-1678) con cụ Thân, tước
Thuần Mỹ nam. Năm 1636,
chúa Nguyễn Phúc Lan dời phủ chúa từ vùng
Bắc Thuận Hóa về
làng Kim Long (huyện Hương Trà, Thừa Thiên), cụ Khôi cũng đến nhập tịch ở huyện
ấy và được chúa Nguyễn cho đổi thành họ Nguyễn khoa ( Ý
chúa, sẽ là dòng họ khoa bảng sau này) .
Và quả thật từ đó, con cháu
họ Nguyễn Khoa thay nhau làm quan cho
các chúa Nguyễn.
- Cụ Nguyễn Khoa Danh (1632-1697), con cụ Khôi, tước Cảnh Lộc bá.
- Cụ Nguyễn Khoa Chiêm (
1659 -1736) là con cụ Danh và bà Lê Thị Am. Là con rể của ngài Tham chính chánh đoán sự Trần Đình Ân. Ông
được cha vợ giới thiệu với chúa Nguyễn Phúc Chu và được chúa tin dùng. Năm 1724
( Giáp thìn) ,ông nhận chức Tham chính chánh đoán sự thay cho cha vợ tuổi già.
Ông cũng là một danh sĩ giỏi thơ văn, là tác giả cuốn Nam triều công nghiệp
chí, soạn vào năm 1719.
Và con cháu họ
Nguyễn Khoa sau này đều là những đại thần có công trong sự nghiệp phò chúa ,
không thua kém gì con cháu họ Trần Đình:
-
Nguyễn Khoa Đăng ( 1690-1725): Làm
đến chức Nội Tán kiêm Án Sát Sứ, Tổng Tri Quân Quốc Trọng Sự, tước Diên Tường
hầu. Nổi danh là người mưu lược và đức độ. Hưởng dương 35 tuổi.
-
Nguyễn Khoa Thuyên (1724-1789): là
võ tướng đời chúa Nguyễn Phúc Thuần. Làm đến chức Tham chính coi bộ Hộ và bộ
Binh.
-
Nguyễn Khoa Kiên (?-1775): Là võ
tướng nổi tiếng trí dũng, người đời xưng tụng là “ Triệu Tử Long”. Sau lần phò
chúa vào Gia Định, ông bị quân Tây Sơn bắt giết. Chúa Nguyễn Phúc Ánh vô cùng
thương tiếc và phong tước Kiệt tiết Công thần, Chiêu dũng Tướng quân.
- Nguyễn Khoa Minh ( 1778-1837): Làm
Thượng thư bộ Lễ, tước Thành Mỹ Hầu.
- Nguyễn Khoa Hào ( 1799-1849): Làm tới chức Thượng thư bộ Lễ
và bộ Hình.
- Nguyễn Khoa Toàn (1899-1965): Là Bộ trưởng Giáo Dục và Thông Tin của quốc gia Việt Nam thời vua Bảo Đại, vị
vua cuối cùng của triều đại nhà Nguyễn.
- Nguyễn Khoa Văn ( 1908- 1954): Ông là
nhà báo, nhà lý luận Mác-xít và phê bình văn học Việt Nam. Bút danh là Hải Triều , nổi danh với cuộc bút chiến
“ Nghệ thuật vị nghệ thuật hay vị nhân sinh”, “ Duy tâm hay duy vật” xảy ra ở giai đoạn
1930-1945 với những cây bút đương thời nổi tiếng khác như Thiếu Sơn, Phan Khôi,
Trương Tửu..
-
Nguyễn Khoa Điềm ( sinh năm 1943):
Là nhà thơ nổi tiếng. Là bộ trưởng bộ Văn hóa - Thông tin. ông có nhiều tập thơ
đạt giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam như: Ngôi nhà có ngọn lửa ấm ( 1986), Cõi
lặng (2007)...
- Nguyễn Khoa Nam (1927 - 1975): Là tướng lĩnh Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Thiếu tướng. Từng đảm trách Tư lệnh một trong 4 Quân đoàn và
Quân khu 4 của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Trong sự kiện
ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông đã tự sát.
Hai họ Trần đình và Nguyễn khoa đến nay vẫn giữ tình thông gia như thuở ngàn xưa. Hằng
năm đến ngày giỗ chạp , hai họ đều
đến viếng thăm nhau thâm tình...
(4) Tiên Sơn thi tập: Là một phần trong bộ sách Tiên Sơn chủ nhân toàn tập( 19
cuốn) gồm các loại Văn, Sớ, Biểu .Tiên sơn thi tập là tập thơ
chép tay, viết bằng chữ Hán . Có khoảng 260 bài thơ, chủ yếu theo thể Đường luật .Tạm chia theo 2 phần Xướng họa và
Vịnh cảnh, vịnh sự, vịnh người... Hiện vẫn chưa được phiên âm và dịch ra thơ
toàn bộ. Nghe nói cụ Trần Đình Tài ( cháu đời thứ 5 của ngài Trần Đình Túc),
định cư ở Mỹ đang trăn trở xúc tiến phổ dịch và in ấn, nhưng vẫn chưa có kết
quả.
Thật ra trong thời buổi này, kiếm cho ra một vị uyên thâm về Hán học, có một tâm hồn thi ca
đồng điệu với người xưa và không còn vướng bận chuyện cơm áo để chuyên tâm vào
phổ dịch cho Tiên Sơn thi tập ,quả là..
gần như không thể !
Có vài vị tâm huyết phổ dịch như Linh Đàm, Hạ
Thái Trần Quốc Phiên cố gắng, nhưng vẫn không quá 10 bài!
Noi gương các vị, bằng tình yêu và sức mọn ,
bằng niềm hoài vọng và cảm phục với tổ tiên, dựa vào phiên bản của Linh Đàm
,tôi thử... một bài! Trân trọng giới thiệu mọi người:
辛未元旦識筆
和風淑氣遍東西
明媚江山入品題
邊澗王春齊慶節
蒸民夀域喜同躋
尋芳未暇登梅嶺
賞勝剛逢過竹批
遥憶京中随鷺序
重賡閎雅咏鳬鷖
陳廷粛
( Trích Tiên Sơn thi tập)
TÂN MÙI NGUYÊN ĐÁN THỨC BÚT
Hòa phong thục khí biến đông
tây
Minh mị giang sơn nhập phẩm
đề
Biên giản vương xuân tề khánh
tiết
Chưng dân thọ vực hỷ đồng tê
Tầm phương vị hạ đăng Mai
Lãnh
Thưởng thắng cương phùng quá
Trúc Khê
Dao ức kinh trung tùy lộ tự
Trùng canh hoành nhã vịnh phù
ê!
( Linh Đàm phiên bản)
XUÂN TÂN MÙI KHAI BÚT
Một buổi chiều tây , gió thuận hòa
Lòng xuân xao động, bước chân ra
Ngắm
núi, nhìn non mừng tiết mới
Làng
xóm yên vui khói lượn nhòa.
Trúc
Khê mới đó đã bao lần…
Ngưỡng
vọng kinh thành về phương ấy
Cánh cò thanh thoát một đường
bay !
Bàng Lư
dịch.
Ta biết, mẹ lại lắng nghe rồi nín lặng. Nín lặng như nỗi cam chịu nhọc nhằn vốn có .Nín lặng như để cưu mang, chia sẻ nhiều hơn với đứa con xa ...
Về với quê là về với trăng, về với con đường cát trắng giữa rừng khuya.
Màu trăng rồi sẽ dịu thêm.Gió sẽ dịu đi.Con đường thưa thớt bóng.Ta lại nghe cay cay cho mỗi phận đời. Nó kiêu bạc làm sao!. Một thằng chừ tóc trắng phơ, nổi bật lên trên khuôn mặt cân đối, đen sì.Hắn có cái mũi thanh tú thẳng phô giữa hai hố mắt thăm thẳm, nâu tuyền hệt như Rabindranath Tagore - nhà hiền triết Bà La Môn người Ấn khổ hạnh, đa tình.Một thằng chỉ đợi ta về để mà thăm thẳm.Khuôn mặt hắn như trang nhật ký mới toanh về Thân phận hay Tình yêu sau mỗi lần gặp lại ...
Rượu lại rót ra, rồi rượu vơi đi .Bọn hắn,mỗi thằng - vẫn một cõi riêng. Bốn bề tám hướng mười phương, nín lặng.Nín lặng như "ý tại ngôn ngoại". Nin lặng lại như mọi điều từ đó mới vỡ lẽ ra thêm.
16.08 NGHE BÀI HÁT "TÌNH NGHÈO" TRONG CHƯƠNG TRÌNH SOLO
VÀ BOLERO CỦA ĐÀI TRUYỀN HÌNH VĨNH LONG.
Tình cờ xem lại vòng chung kết chương
trình Solo và Bolero của đài truyền hình Vĩnh Long năm 2015.Ở vòng này, ca khúc
nào cũng hay, hấp dẫn bởi sự dàn dựng công phu, hòa âm phối khí chuẩn và bởi
các giọng hát thật hay, điêu luyện, nồng nàn...
Giọng
hát Thúy Huyền trong reo như suối ban mai, ngọt dậy lúa thì.Giọng hát Hải Hường
- giọng hát của bờ tre cuối làng mát rượi, hoang ru...Nên ta nghe đâu đó thăm
thẳm tình quê,lay động cả hồn non hồn nước!
Giọng hát đó, vượt qua cả hai giọng hát
gạo cội Duy Khánh - Thanh Tuyền trước năm 1975 và trở thành chuẩn mực cho lớp
lớp mai sau nếu như muốn đến với ca khúc Tình Nghèo. Đúng như lời nức nở của cô
ca sĩ Ý Lan - thành viên ban giám khảo:" Nếu như có nhạc sĩ Phạm Duy ngồi
đây,ông sẽ rất hãnh diện...".
Bài Tình nghèo được phổ từ ý thơ
bài Chày Tre Cối Đất của nhà thơ Hồ Hán Sơn
(*) khá hay, cảm động, viết ra trong giai đoạn năm 1951-1954. Và bài
thơ thật sự nổi tiếng từ khi bài hát Tình Nghèo được phổ biến. Phải nói cho
sòng phẳng, hồn thơ trong Chày Tre Cối Đất đã gợi lên chất liệu và
mở ra một giai điệu chất chứa niềm quê, trong tâm hồn nhạy cảm của người
nhạc sĩ tài năng:
Anh cày thuê
Em dắt trâu
Gánh nước dưới cầu
Gặp nhau
Một cỗ trầu cau
Nên đôi chồng vợ.
Túp lều tre nứa
Dựng cuối vườn làng
Hai mùa lúa chín ngô vàng
Chày tre cối đất rộn ràng thâu canh..."
Tuy nhiên, nhạc sĩ chỉ giữ ý thơ để phát triển bài hát. Với thần
thái đó , ông viết thêm một đoạn theo giai điệu trong khổ nhạc, cũng giàu
chất thơ, cảm động và đẹp:
Nước tràn về làng ta
Nước hờn cuộc tình quê
Ruộng màu tan vỡ
Vườn nghèo xơ rơ
Cửa nhà ngơ ngác
Ôi trẻ thơ, đi về mô?
Ơ..! Khói lửa ngụt trời mơ
Bốc về ngàn nẻo quê
Kéo cuộc tình nghèo đi.
Giặc về ta đánh
Giặc tràn ruộng xanh
Tình nghèo mỏng manh
Đừng chia rẽ đôi lứa mình!
Nét độc đáo trong việc phổ nhạc ở bài này của ông là chọn một
điệu hò mở đầu và kết thúc bài hát. Điệu hò được cách tân làm hấp dẫn,lạ và bất
ngờ cho người nghe...
Hó là hó lờ...( giọng nam).
Lắng tai nghe tiếng ai đang hò lờ
Họ lờ... hó lơ..."
Hoặc Hò lơ ( còn gọi Hò Cấy lúa) ở Huế. Mặc dù chưa được nghe Hò Cấy lúa của Huế,nhưng ta tin ông chọn điệu hò Huế để dẩn dắt bài hát.Vì sao? vì xét trên phương ngữ ca từ và giai điệu bài hát, hò Huế đồng điệu hơn!
Hò lơ Nam bộ nói chung, hay hò Cấy lúa miền Tây Nam bộ nói riêng thường vui nhộn , khỏe khoắn và trên tinh thần " có sao nói dzậy",trong sáng rõ ràng.Trong khi hò Huế nhìn chung thiên về nội tâm ,xa xăm tình tự.Tình yêu đôi lứa luôn ý tứ ,e ấp ngại ngùng ...
Một nét độc đáo nữa,ông đệm chữ " là " trong câu hát khi đưa vào giai điệu, khiến người nghe ngất ngây :
Em (là) dắt trâu
Đôi ta cùng (là) gặp nhau dưới cầu.
...
Vườn nghèo (là) xơ rơ
Cửa nhà (là) ngơ ngác
Ôi! (là) trẻ thơ
Đi (là) về mô ?
...
Giặc về (là) ta đánh
Giặc tràn (là) ruộng xanh
Tình nghèo (là) mỏng manh
Đừng chia rẽ đôi lứa mình!
Nhớ.. nhớ ta chăng ?
Ta về (là) về ta nhớ
Tình tính tang.. là tang tính tình...
Rằng có biết (là) biết hay không?
Tài hoa người nghệ sĩ dân gian là viết ra giai điệu hay và viết dặm độc đáo trong câu hát .Có giai điệu vẫn mãi mãi sau này. Có giai điệu sau đó phát triển, cải tiến theo từng thời kỳ, từng vùng miền... nhưng nghệ thuật chọn chữ dặm cho câu hát trong làn điệu thì bốn ngàn năm vẫn mãi như xưa. Ví dụ như chữ "ư" trong Hát Bội, chữ "ơ" trong Cải lương, chữ "a" trong câu kinh Phật , chữ " i " trong hát Quan họ v.v...
Ta thử nghe câu hát
trong bài " Năm liệu bảy đong":
Những là năm liệu bảy đong
Lòng em thương mến đành lòng sang chơi...
theo làn điệu dân ca Quan họ:
" Những là năm liệu i i i i rằng i i i iii ơ
ờ bẩy là bẩy ơ a bẩy bẩy đong, ơ
a những là năm liệu bẩy đong i i i iiiii.
Lòng em ơ là em
thương mến i i i ii a i i i ii đành ơ ơ a đành i
a ơ đanh đành lòng i i đành lòng sang
chơi..."
Quyến rũ vô cùng. Nghe, rồi đu theo
những i i i iii của làn hơi Quan họ lúc nào không biết! Những Thúy Hường , Thúy
Cải... lần lượt hiện ra với nét đa tình của người con gái Kinh bắc.Cái đa tình
là cái cốt lõi trong những làn điệu dân ca và trong tâm hồn người nghệ
sĩ.
Nhạc
sĩ Phạm Duy đã học nghệ sĩ dân gian cái đa tình đó và đem cái đa tình đó vào
câu hát một cách sáng tạo, làm nên cái riêng cho mình...
Giai
điệu Tình Nghèo đã khiến giọng hát Hải Hường - Thúy Huyền phát tiết. Trước đó
và sau này không thể hay hơn với những bài hát khác.Ta phải chùng xuống khi
nghe Hải Hường hoang ru:
Ruộng màu (là) tan vỡ
Vườn nghèo (là) xơ rơ
Cửa nhà (là) ngơ ngác
Ôi! (là) trẻ thơ
Đi (là) về mô ?
"Đi.. là.. về ..mô..?" . Câu hát chới với, cung điệu ma mị và giọng hát xuất thần !
"Đi là về mô?" - Thúy Huyền đuổi theo bằng chất giọng sáng, long lanh sắc màu...khiến cả hai bỗng... đẹp ra ! Họ nhập vai một đôi vợ chồng quê son trẻ, loạn lạc giữa quê nghèo .Nhìn mà cảm động.., nghe mà rưng rưng..."Đừng chia rẽ đôi lứa mình..." .
Từ đó ta về...
Có vị độc giả hỏi tôi đã lâu:" Từ đó là từ đâu, anh về?" . Chừ đây tôi trả lời: " Từ đó là từ... đây, tôi về!..".
Bờ trúc lơ thơ chiều dại...
(*):
Nhà thơ Hồ Hán Sơn : tên thật
Hồ Mậu Đề. Bút danh : Trần Hồng Nam. Sinh năm 1929 ở Nghệ An. Qua các trường ở
Huế rồi tham gia kháng chiến, chiến đấu ở Liên khu IV. Cựu sinh viên trường Lục
quân chiến thuật Liễu Châu, sau về thành viết báo, xã thuyết, làm thơ, biên
khảo chính trị quân sự. 1952 ông vào Sài Gòn cộng tác với tuần báo Đời Mới,
tham gia chính trị trong một đảng phái ở miền Nam (Cao Đài). Năm 1955, vì lý do
chính trị bị thủ tiêu ở Bến Kéo (Tây Ninh)
Ngoài làm thơ ,ông còn viết sách như:Nghệ Thuật Chỉ Đạo Chiến Tranh (Hà Nội, 1953), Thế Giới Thứ Ba Bùng Nổ, Nước Việt Nam Về Đâu? (Hà Nội,1954).
(Nguồn: Internet.)
" Từ ngày em ở anh đi
Lời dâng cố quận cũng tùy tình em!" BG
Lời dâng cố quận cũng tùy tình em!" BG
PHÔI PHA
Ngọn nắng ấm nhờ có sương giăng
Hương lên tóc nhờ mùa hoa vỡ
Có buổi chiều xanh ngồi nhóm lửa
Nhờ lời quên ,tiếng lỡ mùa xưa.
Bùi giáng trong một sớm thoáng đãng, dịu yên |
Là thứ điệu rung đặc trưng...Bùi Giáng!. Một điệu rung giữa truông ngàn hắt hiu và ruộng đồng cô quạnh.Giữa đỉnh núi mù sa và vực thẳm khói lay.Giữa "ba người con gái ,chiêm bao bên bờ cỏ châu Phi" (1) và bát ngát một mẫu thân Phùng Khánh(2).Giữa "em Mọi nhỏ" mắt rú, chân rừng và kỳ nữ điệu đàng phố thị Kim Cương ...
Nhảy múa tung sườn núi vút dòng khe
Thôi từ nay tha hồ em mặc sức
Vang vang lên đồi núi vọng be be...
Không hay lắm.Câu chữ có lạ trong lối xưng hô nhưng không lóng lánh.Tiết điệu không chảy tuôn hương màu Bùi giáng cô liêu .Không sóng sánh màu trăng , không chát ngọt dị thường như tách trà Tân Cương ban sớm. Chỉ nghe be be vang vọng núi đồi ...
Người con gái khói bay chưa một lần hay biết, hay chưa một lần tự hỏi: Nhớ hay không. Người con gái là trời xa, là viễn mộng sẽ không một lần tự hỏi nữa đâu.
Và người thi sĩ cô đơn hướng về đầu núi , nơi cuối truông ngàn và giữa cõi trăng khuya đã thành biểu tượng vô ngần cho một tình yêu vời vợi.
Chẳng cần phải nói gì thêm hay viết gì thêm, hình ảnh đó sẽ đẹp mãi với mai sau và lóng lánh với ngàn sau ,ơi mãi người con gái!...
hồn hoa dại cỏ
trút lá
Tuy nhiên, câu cuối của khổ thơ nếu viết lại :
Gió cây rung
lá trút
mộng tan lìa...
Từ "trút lá" thành "lá trút" làm câu thơ vang vọng hơn giữa rừng sâu núi thẳm canh khuya. Ở câu này, ta thấy Gió cây và Lá là hai chủ thể quyết liệt,làm nên một "sầu tan mộng rụng".Bỏ lại ánh trăng suông khuya khoắt tiếng trùng xa và một bóng dáng thi nhân ngậm ngùi, gãy đổ:
Nhìn sông rồi cho sông chảy
Nhìn mây, đành để mây bay...(4) ( còn tiếp)
Vì sao thi sĩ Bùi Giáng gọi là mẫu thân? Ta xem đoạn diễn giải của lão trong Thi ca tư tưởng: "...Phùng Khánh vốn là bà mẹ Việt
(3):Tập Thi ca tư tưởng - Bùi Giáng.
(4): Bài "Người đàn ông "- Tập thơ Sương thầm Khói muộn
14.06 HÃY NÓI LỜI CỦA CON TIM
Đọc câu thơ giữa sớm tàn thu
Ta chợt nghe ,có một mùa thu vọng về một mùa thu xa lắm!
và bờ kia khói lạnh vương tàn ...
Ngộ ra bước chân thời gian thầm lặng.
Ngộ ra mình làm cuộc tiễn đưa ...
Còn tôi, tôi quen rồi với mỗi sớm mai! Tôi quen với thổn thức ngập tràn mỗi sớm. Quen cái lâng lâng trong niềm cô đơn lạ thẳm. Như quen với tách trà xanh nóng hổi, ngọt chát dị thường ... Tôi bây chừ đâu được tìm tôi như ngày tháng cũ. Một nhành đời lay động bão giông ngần ấy tuổi còn gì! Có chăng để ngẫm lại .Có chăng cho một lần nhìn. Dù có khi lung linh,có khi chát chúa.Và có khi thấm thía niềm đơn côi mong mỏi của lão Bùi xa lắc chén rượu xưa:
Nhạc sĩ Vũ đức Sao Biển |
***
Nhạc sĩ Thanh Sơn ( tên thật là Lê văn Thiện , sinh năm 1938 tại Sóc Trăng ) với những Hình bóng quê nhà, Hành trình trên đất phù sa, Bạc Liêu hoài cổ...chất chứa một phương ngữ, âm sắc đặc trưng.Nhạc sĩ Hà Phương( tên thật là Dương Văn Lắm, sinh năm 1938 tại Chợ Gạo, Tiền Giang) với những ca khúc thắm đượm điệu lý, câu hò sông nước: Bông điên điển, Bông lục bình,Đồng sâu xứ lạ, Em về Miệt Thứ...góp phần thổi bùng lên một dáng dấp quê nhà. Nhạc sĩ Tô thanh Tùng ( tên thật là Tô Thanh Tùng ,sinh năm 1944 tại Hồng Ngự, Đồng Tháp) với Hồng Ngự mang tên em,Ai về Đông Tháp, Chiếc xuồng, Giăng câu...nghe hồn quê lãng đãng đâu đây.. .v..v..
Nếu như một Thanh Sơn khói sương, len lỏi từng dòng kinh, bờ ruộng chiều hôm; bồng bềnh mái xóm, phên làng dưới bầu trời dân ca Nam Bộ thì nhạc sĩ Vũ đức Sao Biển chỉ quần tụ, cày xới đắp bồi chủ yếu dựa vào giai điệu Dạ cổ hoài lang của nhạc sĩ Cao văn Lầu và điệu buồn Trăng thu dạ khúc.
Chỉ với bốn bài thôi:Điệu buồn phương Nam, Đêm Gành Hào nghe điệu hoài lang, Tiếng quốc đêm trăng, Trở lại Bạc Liêu ... Vũ đức Sao Biển đã có hẳn một góc riêng mãi mãi sáng ngời trong trái tim thổn thức của triệu triệu người hâm mộ.( Riêng bài Dạ cổ hoài lang ta không bàn.Vì đó là bài mà lời, nhạc đều của cố nhạc sĩ Cao văn Lầu , được nhạc sĩ Sao Biển sưu tầm và ký âm, nên có vị trí đặc biệt. Điệu buồn Dạ cổ hoài lang được xem là nguồn cội mọi điệu buồn. Hội đủ những Xàng , Xê, Cống, Líu...để từ đó hóa thân thành bài Vọng cổ của hôm nay).
"Gành Hào ơi, nửa đêm ai hát lên câu hoài lang
( Đêm Gành Hào nghe điệu hoài lang)
Nhạc sĩ Cao văn Lầu |
( Đêm Gành Hào nghe điệu hoài lang)
Buổi ấy ra đi tưởng ngàn năm lẻ đôi én nhạn.
Hôm nay quay về xin cùng nhau nói câu sum vầy...
...Lòng đây thiết tha mong đợi
xin đó đừng phụ nghĩa tào khang...
( Trở lại Bạc Liêu)
Câu hát chơn chất như lát đất vỡ hoang, hồn nhiên lá cỏ .Có sao nói vậy.Mộc mạc,đơn sơ mà vành vạnh vầng trăng. Cái nghĩa,cái tình thuở tào khang chi thê lên bát ngát! (1)
***
Người có hẹn gì không
( Tiếng quốc đêm trăng)
Hay cả hai lênh láng một dòng?!...
...Người ấy xa ta rồi
"Người ấy" của riêng người hay của riêng ta mà hoài vọng.Của riêng ta hay của riêng người mà ánh buồn chợt lóe giữa rừng khuya...
(1): Tào khang chi thê bất khả hạ đường
Bần tiện chi giao bất khả vong.( Tống Hoằng )
***
Tưởng chị cũng như các bà mẹ miền Tây chung một niềm đam mê đờn ca tài tử qua các giọng ca nổi tiếng như Lệ Thủy, Minh Vương...Nhưng hóa ra không phải.
...Nhờ gió đưa duyên
Tới đây tuồng như cảm xúc vượt đỉnh ùa tràn,chị bật hát mà không cưỡng được.Cũng bằng thứ giọng cao na ná Thái Thanh ( chắc chị đã nhiều lần ).Cánh tay phải của chị như tiếp với giong hát ,mềm mại đưa lên thả xuống nhịp nhàng. Chị hát như chính người con gái trong lời ca. Chị hát bằng niềm khát khao dữ dội. Và chị ngân theo như cho dịu một nỗi thu tàn...Chị hát cho tôi nghe? Không phải. Chị hát cho chị? Cũng chưa hẳn. Bởi tôi thấy chị ngồi hát nơi kia như ai đó lên đồng! Chị không biết chị đang hát...
Thôi tình em đấy,
May quá,bài hát dừng lại.Ơn trời, hồn chị cũng về. Mở mắt ra ,chẳng có ai ngoài kia lướt cùng sương khói, nhưng có gió và chim từ bài hát bay về...
Hồi đó, người ta gọi lão là Bồ tát. Một cách gọi yêu có chút trêu đùa.Ngẫm lại cách gọi ấy nhiều khi còn do nhiều nguyên nhân khác."Bồ tát", phải chăng vì lão có một đời sống khổ hạnh,chơn tu như bậc tu hành: Ăn chay, thiền tịnh,chân đất đầu trần."Bồ tát" vì Phật pháp uyên thâm,soi rọi.Năng lui tới chùa chiền, cùng với các tăng ni tâm giao, xướng họa."Bồ tát" vì còn một tấm lòng độ lượng, từ bi. Lão yêu non nước mây trời, cỏ cây muôn thú... Lão yêu nhan sắc,trẻ thơ ...trắc ẩn những phận đời...
Giữa khói sương ai đó nghe dội về lời dặn dò...như cho lão,cho người thương ban sơ, cho ngày gặp lại:
Mai sau còn dự hội nào
Và một chút thánh thiện, điệu đàng của bước chân Cao Tằng Tôn Nữ...
Ở điểm này lão giống cụ Nguyễn Du trong cách nhìn một nhan sắc:
Nghệ sĩ Kim Cương-Một nhan sắc đầy hào quang của lão Bùi |
"Con bò khát bia"-Tranh tự vẽ của lão Bùi. Một thời kỳ cọ được cho là lên tay. Năm 1969, cháy nhà, thiêu rụi hết tranh. Lão buồn và bỏ cọ từ đó. |
Cũng nín lặng chầm chậm theo sau, trước hết là cái cổ trắng ngần đầy đặn lộ ra do tóc hai bờ nghiêng đổ. Rồi từ đôi bờ vai tròn trịa cho đến cái thắt lưng thẳm sâu, thần thánh đều được hiện lên cụ thể những vòng...Điểm dừng lâu nhất vẫn là đôi cổ chân nõn nà khỏe mạnh đang ngụp lặn cùng những bước chân son nhỏ kiêu sa.
Xin ngó lại bàn chân em bước
Vì em đi vào lúc gió đương bay.
( Màu Xuân)
Bây chừ mây trắng đã cuối trời. Cõi đời này , lão ơi! vẫn còn bước chân của người con gái. Có bao giờ về ngó lại nữa không?. Ngó lại con khe giữa rừng rú cũ. Ngó lại khói xưa còn giữ nguyên màu.Ngó lại cỏ cây "ly kỳ gay cấn", để biết có còn "ly kỳ gay cấn" nữa không! (1)
(1):" Thi sĩ sinh ra như mọi người, giữa cỏ cây ly kỳ và chết đi giữa cỏ cây ly kỳ gay cấn". Bùi Giáng - (Tư tưởng hiện đại).
(*): " Bây giờ riêng đối diện tôi
Còn hai con mắt khóc người một con..." ( Bài Mắt buồn- Bùi Giáng)
(**):Trong bài tựa tập thơ Mưa nguồn - Bùi Giáng
13.02 LÃO BÙI NGÀY ẤY - KỲ II
Người ta lại viết về những bóng râm,góc khuất ...dưới bầu trời chói chang Bùi Giáng. Bầu trời ấy, những ai mới bước vào, đều bị đập vào mắt trước cái chói chang lạ lẫm mênh mông. Và với một bầu trời bát ngát sắc màu đầy ma lực và quyến rũ như thế đủ khiến cho ta phải háo hức đọc, viết và ...tận hưởng.Sao cứ tìm chi những góc khuất,thấp lè tè dưới những lùm cây?
2. Kỳ lạ chuyện học ngoại ngữ
Tiếng Pháp được cho là giỏi từ thời trung học trai trẻ. Ngoài năng khiếu bẩm sinh với trí thông minh tuyệt vời, một người bạn học đồng niên tiết lộ cách học độc đáo của lão. Tức là lão chọn một cô gái xinh đẹp nhất trường,giỏi tiếng Pháp để viết thư ...tình bằng tiếng... Pháp.
Thư đi thư lại và cho đến khi người con gái xinh đẹp kia phải mềm ra vì nỗi chờ mong,bỏ ăn bỏ ngủ đón đợi những cánh thư bay bướm,đa tình bằng tiếng Pháp thì cũng là lúc lão bắt đầu thâm hậu trong nói , viết , làm thơ và ...dịch các tác phẩm kinh điển của nền văn học Pháp!Ta cứ cho cách giải mã trên là hợp lý.
Còn những ngoại ngữ khác thì sao, kể từ khi lão nghỉ học về chăn dê ở vùng núi đồi Trung Việt, ngao du lên xuống đất Sài thành sau này.Rồi ăn ,ngủ như một cái bang thực thụ mà hồn nhiên lão kể :
"Sài gòn , Chợ Lớn rong chơi
Đi lên, đi xuống đã đời du côn..."?
Tiếng Anh, thôi thì cho lão cũng kiếm được một cô xinh đẹp( xinh đẹp lão mới chịu),giỏi tiếng Anh để viết thư tình.Còn chữ Hán, e khó.Giữa thời buổi bấy giờ ,xã hội miền Nam Việt Nam vào những năm 60 bị cho là lai căng, Tây hóa...thì biết kiếm đâu ra cho lão một cô gái vừa xinh đẹp,vừa chịu khó ngồi nghiền ngẫm chữ Hán với lão? Với một đời sống khi tỉnh khi loạn,rày đây mai đó," đi xuống đi lên".Với một phương tiện nghèo nàn,dụng cụ thiếu thốn... làm sao để lão có thể thâm nhập vào cái loại chữ tượng hình đa nghĩa, nhiều ý tứ thâm trầm này?
Những tư tưởng lớn của thiên tài Trung Hoa như Trang tử, Lão tử... rốt cuộc đều được lão tóm lĩnh tinh thông.Theo đánh giá của các vị cao niên lúc ấy,sức am hiểu của lão bất ngờ và lập tức nhảy vọt lên trên hạng mức "thượng thừa"( chữ Bùi Giáng ưa dùng).Về sau này nhà văn Bùi văn Nam Sơn - Thân tộc với Thi sĩ Bùi Giáng kiểm chứng lại những trích dẫn, đọc, dịch những pho Cổ thư, Kinh kệ, Thi ca... đồ sộ - tinh hoa của nền triết học Trung Hoa nói riêng, của Đông phương nói chung...đều chuẩn xác ,sâu sắc và tài tình .
Ta đành tự an ủi cho việc giải mã đó. Dù sao Chữ Hán cũng không xa lạ với "một ngàn năm đô hộ giặc Tàu.." ( Trịnh công Sơn) tại Việt Nam và ta tin rằng ở giai đoạn đó ,đất nước ta vẫn còn nhiều cụ túc nho,uyên thâm chữ Hán lẫy lừng.Chắc lão đã đầu quân vào một ai trong các vị đó?
Bút tích của lão Bùi
Nếu như việc học chữ Hán còn đoán ngược ,đoán xuôi thì việc tinh thông tiếng Đức sau vài ba năm kế tiếp, ta chỉ còn nước chắp tay xá lão! Không giải thích được. Cho đến bây chừ, năm 2013 tại thành phố Hồ chí Minh chưa chắc đã có một trung tâm nào chuyên về Đức ngữ, huống chi vào thập kỷ 60 trước đó. Vậy mà không biết bằng cách nào, lão có thể dịch thuật, trực tiếp trao đổi thư từ với chính Martin Heidegger - một triết gia người Đức, nổi tiếng với thuyết hiện sinh chủ nghĩa cũng vào những năm 40-50 của thế kỷ trước.
Hãy xem lão tự tin viết :" Heidegger khoát nhẹ một nửa bàn tay đủ lật nhào hai ngàn năm rưỡi tư tưởng triết học Tây phương và dựng lên một cõi gì chưa có danh hiệu chỉ định".
Còn các vị học giả cùng thời thì cho rằng đó là lần đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam có một nhà thơ Việt Nam sống cùng nhịp với các trào lưu tư tưởng lớn của thế giới đương đại. Họ nói : "Bùi giáng không hiểu triết học như một thầy giáo , mà sống với triết học như một bậc thầy..." (*)
Rồi nghe nói sau năm 1975 , người ta bất ngờ nghe lão cãi vả bằng tiếng Nga với một phụ nữ Nga ( chắc cũng xinh đẹp).Vậy là lão học thêm tiếng Nga .Một năng lực ngôn ngữ phi phàm! Xin chịu lão! ( còn tiếp)
(*): Đỗ lai Thúy
Người ta gọi lão là điên. Người ta còn nói ngày lão đi xa không trống,không kèn. Văn chương lão không được đưa vào văn học Sử nên có gì phải dựng đứng lão dậy để Hội thảo ?Còn có những tên tuổi như Tố Hữu, Xuân Diệu kia kìa...
1. Kỳ lạ chuyện điên
( còn tiếp)
Đường xưa cỏ khép ngồi mơ một mình.
Để không nỡ trách người mình thương yêu
Để thêm một tiếng thở chiều
Rồi thôi không nói những điều lẽ ra...
Cho tôi làm cánh cò xa
Để tôi bay lả bay la cánh đồng
Để em đừng nói thật lòng
Từng đêm sao rụng xuống dòng mắt khuya.
Rồi mưa rồi gió đầm đìa
Ao này chân cứng, bờ kia đá mềm.
Cho tôi lộn cổ cành mềm
Còn hơn không có cành mềm giữa khuya!
Cám ơn một đoạn thơ tình
∆
Em trôi về phía Nàng
Anh còn lại Ta.
Còn lại đêm bỗng khuya khoắt lại
Còn lại trưa chợt lắng giọt vàng.
Còn lại tách cà-fe tối thẳm
Cốc rượu nồng sáng buổi hồng nhan.
Tình từ đó còn hơn lời đã nói
Còn hơn thơ đã viết
Còn hơn cả ánh mắt anh nhìn!
***
Rồi Nàng biền biệt phương Người
Ta cũng phương Người biền biệt
Mây loạn trên đầu
Gió cuốn sau lưng!
Một ngày về sông Rây lạ hoắc
Con đường chung bước chẳng nhận ra.
Tình từ đó ngại cả lời thăm hỏi
Nói chi một cuộc trùng phùng!
Mà đời người thì nay mai
Phải chi tình này sớm thắm chiều phai!
∆
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét