16.09 BÀN VỀ GIAI THOẠI VÀ
CÂU SẤM KỲ BÍ
CỦA DÒNG HỌ TRẦN
ĐÌNH. Kỳ II
B. Về giai
thoại và câu sấm:
Không
chỉ có họ Trần đình, trong lịch sử Việt Nam những dòng họ danh tiếng khác đều
có những giai thoại,câu sấm ( gọi chung là giai thoại) kỳ bí chung một mô-tip
.Mô- típ đó, có thể liệt kê theo trình tự như sau:
1-
Chủ nhân là người nghèo khó, hiền lành , phúc hậu.
2.
Thầy phong thủy ( địa lý) xuất hiện.
3-
Nhờ đức cao, phúc dày nên được an táng vào huyệt mộ cực tốt về phong thủy.
4-
Hiện tượng "Thiên Táng" hay ngôi mộ tổ kết.
5-
Con cháu sau đó đỗ đạt ,làm quan ,giàu sang phú quí
nhiều đời.
6-
Xuất hiện những câu sấm kỳ bí .
Những giai thoại đó tồn tại trong dân
gian theo kiểu: "Tương truyền....". Không xác định tác giả ,
thời điểm ra đời và tuồng như ai cũng có thể tham gia thêm thắt câu chuyện .
Giai thoại luôn gắn liền với các sự kiện lịch sử, hiện tượng địa lý ( gọi
chung là sự kiện lịch sử). Mối quan hệ giữa giai thoại và các sự kiện lịch sử,
là mối quan hệ theo kiểu quả trứng và con gà. Quả trứng có trước hay con gà có
trước? Chẳng ai xác định được. Chỉ thừa nhận rằng, giai thoại đã khiến cho lịch
sử trở nên sinh động, thú vị hơn .Làm thỏa mãn tính hiếu kỳ dân
gian. Phù hợp với tư tưởng " Mệnh Trời" của Nho giáo, vốn được xem
chuẩn mực trong xây dựng, phát triển đạo đức xã hội ở các triều đại phong
kiến. " Bất tri mệnh ,vô dĩ vi quân tử" ( Không hiểu mệnh trời ,
không đáng gọi quân tử) Vì vậy, ngoài dân gian lưu truyền, giai thoại còn
được các nhà sử học, các bậc túc Nho xưa ghi chép cẩn thận.
Câu chuyện 1:
Ngài Thượng Thư, Hiệp Biện Đại học Sĩ Trần Đình Túc ghi trong gia
phả :
“Sự
trạng ngài Trần Văn Khởi: Ngài vốn người thành thật, chăm việc điền viên. Một
hôm có hai thầy địa lý, một người là Lê Phúc Hoàn, người làng Xuân Mai, tỉnh
Nghệ An; người thứ hai là Trương Đình Thận, người làng Cao Lao, tỉnh Quảng
Bình, nhân đi coi địa lý thường nghỉ lại nhà ông. Đến khi ra đi, hai thầy ham
coi sơn thủy vui cảnh lâm tuyền, bỏ quên túi bạc lại. Hai ông bà lật đật đi
tìm, đưa trả túi bạc lại. Hai ông thầy cảm phục tấm lòng trung hậu nên chỉ cho
chỗ đất tốt ở xứ Lãng Phao và có dặn rằng: Ngày sau ông bà trăm tuổi, bất luận
ngày tháng nào, cứ theo hướng ấy mà hợp táng, thì con cháu đời đời hưởng phúc
ấm no vô cùng. Nói rồi, hai thầy từ biệt ra đi. Sau y phép ‘hợp táng’ ấy là đất
phát phúc họ ta kể từ đó.”
Mô-tip câu chuyện gồm có:
1. Ngài là người thành
thật, chăm chỉ.
2. Xuất hiện 2 thầy địa
lý ( dù không phải người tàu).
3. Nhờ lòng trung hậu
nên có huyệt tốt và hợp táng.
4. Con cháu làm quan
nhiều đời...
Câu chuyện 2:
Ngôi mộ Triệu tổ Nguyễn Kim
Trong Đại Nam Thực Lục
tiền biên, bản dịch viện Sử học- 1962, trang 27 có ghi việc an táng Triệu tổ (
cụ tổ Nguyễn Kim ) theo khuôn mẫu trên: " Tương truyền huyệt đào trúng hàm
rồng, khi đặt quan tài xuống thì cửa huyệt ngậm lại. Bỗng trời nổi mưa gió sấm
sét, mọi người sợ chạy. Đến lúc tạnh trở lại thì đá núi vùi lấp, cỏ cây xanh
tốt, không nhận được là táng nơi nào nữa. Đến nay có việc ( cúng tế) chỉ trông
vào núi tế vọng thôi."
Mô-tip câu chuyện gồm có:
1-
Huyệt mộ là hàm rồng.( cực tốt về phong thủy)
2- Hiện
tượng "Thiên Táng" .
3- Dòng họ
sau đó phát 9 đời chúa và 12 đời vua
( Hơn 500 năm ).
Câu chuyện 3:
Họ Ngô 10 đời đỗ đại khoa.
Tại làng
Vọng Nguyệt xã Tam Giang, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh có dòng
họ Ngô 10 đời đỗ đại khoa.Tương truyền hơn
500 năm trước, một thầy địa lý Trung Hoa chỉ cho cụ tổ họ Ngô lệnh tộc là cụ
Ngô Nguyên đến một khu đất tốt hướng dẫn xây nhà thờ họ để con cháu sau này
hiển vinh. Địa điểm đặt nhà thờ ứng với 2 câu sấm của thầy địa lý là “vườn
quýt, ao Lác”. Địa điểm đặt nhà thờ tổ họ Ngô trong giai thoại , hiện vẫn còn
trên nền vườn quýt, ao Lác xưa trong làng Vọng Nguyệt.
Câu chuyện được kể
tiếp về cụ tổ bà Chu Thị Bột (tức cụ Thí Thóc, người ban phát thóc cứu giúp cho
dân nghèo - vợ cụ Ngô Nguyên). Tương truyền cụ tổ bà mất trong một đêm mưa to
gió lớn nên con cháu phải quàn tạm ở đầu làng để sớm mai chôn cất. Lạ thay chỉ
sau một đêm mà mối đùn đất quanh thi hài thành một đống lớn. Con cháu cho rằng
trời cho mảnh đất thiêng nên cứ thế đắp thành mộ, gọi là mộ thiên táng. Chính
vì được thiên táng nên cụ tổ bà càng thêm linh nghiệm phù hộ cho con cháu họ Ngô
được hiển vinh lâu dài trên đường học vấn.
Khi cụ tổ bà Chu Thị Bột
qua đời, hai con trai mỗi người một chí. Con trưởng là cụ Ngô Ngọc (1451-1519)
ở lại Vọng Nguyệt tu chí học hành, con thứ là cụ Ngô Định di cư vào mạn Diễn
Châu (Nghệ An) lập nghiệp, cũng học hành chăm chỉ.
Từ đó con cháu họ Ngô
phát về đường khoa bảng.
1. Cụ Ngô
Ngọc đỗ đệ nhị giáp Tiến sỹ xuất thân (Hoàng
giáp). Khoa thi Đinh Mùi niên hiệu Hồng Đức 18 (1487),
2. Cụ Ngô
Nhân Hải (chưa rõ năm sinh, mất - con cụ Ngô Ngọc) đỗ đệ nhị giáp Tiến
sỹ xuất thân (Hoàng giáp) khoa thi Mậu Thìn (1508).
3.Cụ Ngô
Nhân Trừng (1539-1593, cháu nội cụ Ngô nhân Hải) đỗ đệ nhị giáp Tiến
sỹ xuất thân (Hoàng giáp) khoa thi Canh Thìn (1580);
4.Cụ Ngô Nhân Triệt (chưa
rõ năm sinh, mất , con trai cụ Ngô nhân Trừng) đỗ đệ tam giáp đồng Tiến sỹ xuất
thân khoa thi Đinh Mùi (1607);
5.Cụ Ngô
Nhân Tuấn (1595-?, Con trai cụ Ngô Nhân Triệt) đỗ đệ tam giáp đồng
Tiến sỹ xuất thân khoa thi Canh Thìn (1640).
Nghe nói nhánh thứ 2 của họ Ngô lệnh tộc đứng đầu là cụ Ngô Định
di cư vào mạn Diễn Châu (Nghệ An) cũng học hành chăm chỉ và cũng có 5 đời đỗ
Tiến sỹ. Không thấy ghi tên cụ thể.
Mô-tip câu chuyện gồm có:
1- Chủ nhân là người có phúc phận.
2. Thầy phong thủy ( địa lý) xuất hiện.
3- Nhờ đức cao, phúc dày nên được nơi thờ tự gia tộc cực tốt về phong thủy.
4- Hiện tượng "Thiên Táng" cụ tổ bà.
5- Con cháu sau đó đỗ
đạt ,làm quan đến 5 đời( hay 10 đời).
6- Xuất hiện câu sấm kỳ bí " Vườn quýt, Ao Lác"
Nói
về họ Ngô tộc Nói về họ Ngô lệnh tộc , nhà bác học Phan huy Chú phải thốt
lên:" Họ Ngô lệnh tộc làng Vọng Nguyệt kể từ cụ Ngô Ngọc đỗ chính bảng
thời Hồng Đức , cả thảy có 5 đời đỗ tiến sĩ thực là hiếm có xưa nay! " (
Theo Thanh Tú - Bắc Ninh Online).
Câu
chuyện 4: Gia đình họ Nguyễn nhân có 5 anh em đỗ đại khoa
Sử sách ghi
chép gia đình họ Nguyễn Nhân là gia đình thuộc làng Kim Đôi, xã Kim Chân, thành
phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh có 5 anh em ruột lần lượt trở thành tiến
sĩ lúc dưới tuổi 20, chỉ trong vòng chín năm từ 1466-1475:
1.Cụ Nguyễn Nhân Thiếp đỗ Hoàng Giáp,
năm 1466 khi mới 15 tuổi. Ông làm quan tới chức Thượng thư bộ Lại.
2.Cụ Nguyễn Nhân Bỉ đỗ đệ tam giáp
đồng tiến sĩ xuất thân năm 1466, khi 19 tuổi. Ông từng được cử đi sứ nhà Minh
và sau này được thăng lên làm Thượng thư bộ Binh. Ông cũng là thành viên trong
hội Tao Đàn, (hội Thơ - PV) do vua Lê Thánh Tông lập ra.
3.Cụ Nguyễn Nhân Phùng đỗ đệ tam giáp đồng tiến
sĩ xuất thân năm 1469 khi 19 tuổi. Làm quan đến chức Hàn lâm viện Thị độc
chưởng viện sự kiêm Lễ bộ tả thị lang. Ông cũng là thành viên trong hội Tao Đàn
của vua Lê Thánh Tông.
4.Cụ Nguyễn Nhân Dư đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ
xuất thân năm 1472 khi mới 17 tuổi.Ông làm quan đến chức Hiến sát sứ.
5.Cụ Nguyễn Nhân Đạc đỗ đệ tam giáp đồng
tiến sĩ xuất thân năm 1475 khi 18 tuổi. Ông làm quan đến chức Hàn lâm viện Hiệu
thảo.
Riêng cụ Nguyễn Nhân Thiếp lại có
tới 3 người con đỗ tiến sĩ là Nguyễn Hoành Khoản (đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ
xuất năm 1490), Nguyễn Nhân Huân (đỗ bảng nhãn năm 1496), Nguyễn Nhân Kính (đỗ
đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất năm 1496).Và nghe nói dòng họ Nguyễn có 18 vị
tiến sĩ ,trong đó có tới 7 vị làm tới chức Thượng thư.
Vua
Lê Thánh Tông còn phong gia đình Nguyễn Nhân 8 chữ vàng là " Kim Đôi gia
thế, chu tử mãn triều" ( Dòng họ Kim Đôi áo đỏ,áo tía đầy triều).
Và để giải thích việc đỗ đạt kỳ lạ này ,tại làng này tồn tại một
câu chuyện kỳ lạ không kém:
Tương truyền rằng, khi cụ Hay ( mẹ của
5 tiến sĩ ) nhặt được túi vàng của người Tàu bỏ rơi . Mấy ngày sau cụ thấy có
một người vừa khóc lóc, vừa như tìm kiếm một thứ bị mất. Hỏi ra mới biết là
người đó đang tìm túi vàng bị rơi cách đây vài ngày. Cụ Hay đem trả lại cho
người đó túi vàng. Mấy năm sau người bị mất túi vàng đó trở lại
Việt Nam với một thầy địa lý người Tàu ( lại thầy địa lý người Tàu).
Họ trả ơn cụ bằng cách tìm một khu đất tốt để cụ táng mộ ông bà, cha mẹ vào đó
và nói rằng, con cháu sau này nhất định sẽ được hưởng lộ.
Lúc bấy giờ thầy
địa lý Tàu có tìm tới hai khu đất quý, một là khu đất đế vương (nhưng chỉ phát
trong một đời) và một khu đất trường trường công khanh ( tương tự câu chuyện
huyệt mộ tổ họ Trần đình). Thầy địa lý Tàu cho cụ Hay lựa chọn và cụ đã chọn
mảnh đất để sau này con cháu nối nhau làm nên sự nghiệp. Mảnh đất đó hiện nay
thuộc xã Phao Sơn, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương và nay vẫn còn ngôi mộ mà cụ
Hay táng cha mẹ mình ở đó. Hiện tại, khu đất đó có 3 ngôi mộ là mộ của cụ Hoàng
Phụng Thế (ông nội cụ Hay), cụ Hoàng Chân Bảo (bố cụ Hay) và Nguyễn Nhân Thiếp
(con
trai cụ Hay).
Mô-típ câu chuyện gồm có:
1- Chủ nhân là người hiền lành , phúc hậu.
2. Thầy phong thủy ( địa lý) xuất hiện.
3- Nhờ đức cao, phúc dày nên được an táng vào huyệt mộ cực tốt về phong
thủy.
4- Con cháu sau đó đỗ
đạt ,làm quan nhiều đời.
Câu chuyện 5:
Dòng họ Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
Tương truyền rằng: tại làng Đại Phong
(tục danh Đợi), huyện Phong Lộc (sau đổi thành huyện Lệ Thủy), tỉnh Quảng
Bình, ông nội cụ Ngô Đình Diệm là cụ Ngô Đình Dinh (gốc ở huyện Quảng Ninh)
nghèo lắm, vợ chết sớm. Xin đến tạm trú làng Đại Phong với một đứa con trai mới
6 tuổi, được làng cho làm sai dịch ở đình làng. Mỗi khi có việc làng thì đun
trà rửa chén… Chẳng may do bệnh tật đói rét mà chết. Làng cho trai đinh bó
chiếu chèo thuyền đưa lên núi chôn. Đến bến Kéc (chân núi An Mã) thì trời sập
tối. Lúc trai đinh khiêng xác lên một đoạn thì nghe tiếng hổ gầm, sợ quá khoét
vội một chỗ lấp tạm định bụng sáng mai lên chôn lại. Hôm sau chèo thuyền lên
thì mối đã đùn thành gò lớn. Các bô lão cho là thiên táng nên để vậy. Còn đứa
con trai 6 tuổi mồ côi cha được một cố đạo người Pháp ở làng Mỹ Phước nhận
nuôi. Đứa con trai đó sau này là Thượng Thư trong triều Nguyễn, ông Ngô Đình
Khả thân sinh ông Ngô Đình Diệm.
Mô típ câu chuyện gồm có:
1- Chủ nhân là người nghèo khó.
2- Hiện tượng "Thiên Táng" hay ngôi mộ tổ kết.
3- Con cháu sau đó đỗ
đạt ,làm quan.
Và dòng họ Ngô đình phát quan từ đó.
1- Cụ Ngô Đình
Khả - Thượng Thư Bộ Học (1898 ) ,Hiệp tá
Đại học sĩ ( 1902 ) triều vua Thành Thái.
2-Cụ Ngô
Đình Khôi (1885-1945) -Tổng đốc Quảng Nam, triều
Nguyễn.
3-Cụ Ngô
Đình Diệm ( 1901 hay 1897? - 1963.) - Thượng Thư
Bộ Lại triều Bảo Đại. Tổng Thống Đệ Nhất VNCH ( 1955 ).
4-Cụ Ngô
Đình Thục (1897-1984) - Đức Tổng Giám mục.
5-Cụ Ngô Đình
Nhu (1910-1963 ) - Cố vấn Tổng thống VNCH
6-Cụ Ngô Đình
Cẩn (1912-1964) - Cố vấn cao nguyên Trung
phần VNCH
7-Cụ
Ngô Đình Luyện (1914-1990) - Luật sư và Đại sứ VNCH tại
Anh, Hà Lan, Bỉ.
( Theo Tạp
chí Khoa Học Huyền Bí số 1B(75) ngày 20 tháng 1-1975 )
Sông Kiến Giang, đoạn
ngang qua ngôi mộ cụ Dinh
|
Ngoài ra có giai thoại về Ngôi mộ tổ họ Ngô Đình”
ba lần bị chạm long mạch, làm con cháu lao đao rồi tuyệt tự.
Về phương diện phong thủy, ngôi mộ kể trên đã vào vị trí
trung điểm của núi sông Lệ Thủy:
- Phía Nam có núi An Mã dẫn về Bến Trấm, Bến Đẻ.
-
Phía Tây có núi Đầu Mâu hướng về biển Hạc Hải.
-
Phía Đông Bắc long mạch theo sông Kiến Giang lên Tróc Vực. Ngôi mộ được kết
phát nhưng không có người viếng thăm.
Theo một vị sư già trong đoàn chư
tăng về làm lễ cầu siêu cho Lễ thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh (chôn gần đó),thì vùng
đất này về Dương trạch là thế đất sinh vương. Hai làng Đại
Phong và An Xá ( làng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp ) nằm trên vùng đất này.
Về Âm trạch chí ít cũng sinh công hầu , khanh tướng. Vì là vùng đất
thiêng nên ngoài mộ chí họ Ngô, còn có họ Võ ,họ Hoàng ( Hối
Khanh) họ Nguyễn (Hữu Cảnh).Tiếc thay, vùng đất bị cày xẻ dọc ngang , đào kênh
dẫn thủy bởi phong trào khai hoang Bến Tiến. Trong
bài " Quảng Bình quê ta ơi! " của nhạc sĩ Hoàng Vân có câu: “Có ai về
Đại Phong, xin vô ghé thăm vùng Bến Tiến. Taу
cuốc khai hoang đã đẩу lùi quá khứ nghèo nàn” .
Ngôi mộ tổ bị cắt đứt long mạch, khiến con cháu lao đao và dòng họ Ngô tuyệt
tự.( Theo Lệ Thủy- Địa linh nhân kiệt)
|
Hói làng Đại
Phong - một trong những cách trấn yểm long mạch
|
|
|
|
Câu chuyện kể rằng thủa xa xưa, năm 1530, nhà Mạc có 4 vị quan
đầu triều, thì 3 vị là người tổng Đại Phong. Mạc Đăng Dung sai thầy địa lý xem
thế đất Đại Phong thấy hình dáng chim phượng hoàng,cho rằng thê đất phát đế
vương, nếu không kịp yểm thì có cơ lấn át cả triều đình. Mạc Đăng Dung cho đào
một con mương cạn dài từ Mũi Viết để “mổ diều” cho phụng chết. Đến thời nhà Lê,
thầy địa lý lại phán, phụng bị nhà Mạc mổ diều nhưng chưa chết, đình Đại Phong
dựng nơi đầu phụng nên làng này vẫn có khí đế vương. Đất ấy từ xưa đến nay đã
có nhiều quan to văn võ. Đại tướng Võ Nguyên Giáp quê Lộc Thủy nằm trong vùng
cánh phượng. Thuật phong thủy cho rằng, Âm trạch yên ổn, con cháu sẽ phúc
lộc và ngược lại sẽ bị tổn hại nếu nhẹ . Nặng thì tuyệt tự. Và qua câu chuyện,
ta thử suy ngẫm thực hư xem.
- Chạm long mạch lần 1 (1939 ): Nhà tư sản
lúa gạo người Đồng Hới, tên là Paul Ngọc, đã mua vùng đất Ba Canh, dưới chân An
Mã để canh tác. Ba Canh không phải vùng màu mỡ thuận lợi để sản xuất lúa gạo
nên Paul Ngọc đã cho đào mương dẫn thủy làm chấn động mạch khí. Mặc dầu việc
thủy lợi dở dang nhưng liền đó Ngô Đình Diệm bị Bảo Đại cách chức Thượng thư Bộ
Lại thu hồi tất cả phẩm trật huy chương vì trái mệnh triều đình chống đối Hoàng
đế. Cùng với sự thất sủng của ông Diệm, ông Ngô Đình Khôi đang làm Tổng đốc
Quảng Nam bị viên Phó Toàn quyền Nouailletas gây khó.
- Chạm
long mạch lần 2 (1944 ): Paul Ngọc mời được một kỹ sư canh nông
Nhật và tiếp tục công trình dang dở. Liền đó, ông Ngô Đình Khôi, Tổng đốc Quảng
Nam cùng con trai Ngô Đình Huân bị thủ tiêu năm 1945. Khi đó việc thủy lợi của
Paul Ngọc lại dang dở lần nữa do Đồng minh đánh Nhật, mọi việc đều đình đốn,
các kênh dẫn thủy nhờ thời gian yên ắng đã được đất bồi lại, long mạch được hàn
gắn phần nào. Ông Võ Nguyên Giáp (đồng hương với họ Ngô) Bộ trưởng Nội vụ và
ông Vũ Đình Hòe Bộ trưởng Giáo dục CP Lâm Thời, ký sắc lệnh số 21 ngày
08/9/1945 bổ nhiệm ông Ngô Đình Nhu làm giám đốc Nha lưu trữ công văn và Thư
viện toàn quốc. Ông Nhu từ chối. Năm 1951, ông Diệm sang Mỹ, ở New Jesey vận
động cho những mục tiêu chính trị riêng.
- Chạm long mạch lần 3 (1961): HTX Đại Phong xây dựng lá cờ đầu nông nghiệp, khai
hoang Bến Tiến, đào kênh đẫn thủy, đào hầm hào ở chân đồi An Mã. Việc hành
quyết ông Diệm, ông Nhu thì ai cũng rõ. Ngô Đình Cẩn đang ở Huế, nghe tin anh
bị đảo chính tá túc vào nhà thờ dòng Chúa Cứu Thế ngày 02/11/1963 nhưng không
thoát, tới ngày 16/4/1964 bị xử bắn. Ông Ngô Đình Luyện thoát vì đang ở London.
Ông Ngô Đình Thục phải lưu vong, sau đó ông đã vi phạm việc tấn phong Giám mục
bất hợp thức, được giải vạ năm 1984 trước khi mất vài tháng. Các phần mộ gia
đình họ Ngô ở Sài Gòn cũng không được yên, phải di dời tới nơi mới như hiện
nay. (
Theo Lệ Thủy- Địa linh nhân kiệt)
Câu chuyện chạm long mạch họ Ngô cũng
tương tự câu chuyện chạm long mạch ngôi mộ cụ tổ khiến sự nghiệp ba anh
em nhà Tây sơn Nguyễn Huệ đang ở
đỉnh cao , thân thế lẫy lừng, bỗng lụi tàn nhanh chóng và tuyệt tự.
(
theo Tử Vi và tướng Số - Facebook)
Lời
kết:
Nói như GS. TS Ngô Đức Thịnh - viện
trưởng viện Nghiên cứu văn hóa dân gian : Những câu chuyện nêu trên
chỉ là " những giai thoại dân gian". Mà đã là dân gian ,câu
chuyện tồn tại nhờ vào truyền miệng, rồi
có thể thêm bớt chút yếu tố tâm linh, thần thánh hóa phần nào câu chuyện ,nhằm
thỏa mãn nghe và giải thích các hiện tượng trên.
Tâm hồn con người Việt Nam cứ như nghìn vạn cánh chim, bay bổng
thênh thang trên những cánh đồng bát ngát. Sức thi vị tưởng vô cùng.Người nghệ
sĩ Việt Nam nhiều không đếm hết, từ dân dã đến hàn lâm. Nguồn nghệ sĩ dân
gian là vô tận, từ đời này sang đời khác, không dứt không nguôi
. Họ để lại cho đời cả kho tàng văn
hóa dân gian đồ
sộ, phong phú và cực kỳ quý giá!
Yếu tố lịch sử và câu chuyện vẫn dựa vào nhau như Con gà -
quả trứng. Không đủ cứ liệu để có độ tin cậy, cũng như không đủ cứ liệu để bác
bỏ hoàn toàn. Các hiện tượng lạ thường, đầy yếu tố tâm linh vẫn còn đó
trong đời sống chúng ta. Người xưa không hẳn vô lý, khi ghi chép lại. Như
ngài Thượng Thư - Hiệp biện Đại học sĩ Trần Đình Túc trong Gia phả; các vị đại
thần chủ biên trong Đại Nam Thực Lục cho con cháu nghìn sau...
(1) GS. Nguyễn Lý Tưởng: Sinh năm 1939 ,tại Quảng
Trị. Là Giáo sư Trung học. Sau năm 1975 định cư tại Mỹ. Ông viết văn , làm thơ,
biên khảo và dịch thuật. Các tập truyện biên khảo đã in ấn như: Thuyền ai đợi bến
Văn Lâu, Đưa em tới chốn nhà Hồ, Đại Nam Liệt Truyện Tiền Biên ( dịch thuât)...
(2) Đại Nam thực lục : là bộ biên niên sử Việt Nam viết
về triều đại các chúa Nguyễn và các vua nhà
Nguyễn. Đại Nam thực lục gồm 584 quyển, viết bằng chữ Hán thể văn
ngôn và ghi chép các sự kiện lịch sử tới năm 1925 (không bao
gồm vua Bảo Đại).
Ban đầu, bộ sách mang tên "Đại Nam thật lục" . Tới đời
vua Thiệu Trị, chữ “ thật” bị đổi và đọc là "thực", vì kỵ húy với tên của chính thất của vua Minh
Mạng là Tá Thiên Hoàng hậu, thân mẫu của vua Thiệu
Trị.
Đại
Nam Thực lục Chính biên ghi chép
các sự kiện lịch sử từ khi Nguyễn
Ánh làm chúa (1778) đến đời Đồng Khánh (1887), và sau này được viết thêm đến
đời vua Khải Định (1925).
Cả hai phần Tiền biên và Chính biên của bộ
sử Đại Nam thực lục được soạn bắt đầu từ năm 1821 (năm Minh
Mạng thứ hai), sau 88 năm đến năm 1909 mới cơ bản hoàn thành (gồm toàn
bộ phần Tiền biên và 6 kỷ đầu phần Chính biên).
(Theo Wikipedia)
(3) Họ Nguyễn
khoa : Ông tổ họ Nguyễn Khoa, là cụ Nguyễn
Đình Thân (1553-1633), vốn người ở làng Trạm Bạc, huyện An Dương,
phủ Kinh Môn,
trấn Hải Dương (nay là tỉnh Hải Dương).
Cụ Thân là
tướng trải qua hai triều chúa Nguyễn Hoàng và Nguyễn Phúc Nguyên. Cụ Nguyễn Đình Khôi (1594-1678) con cụ Thân, tước
Thuần Mỹ nam. Năm 1636,
chúa Nguyễn Phúc Lan dời phủ chúa từ vùng
Bắc Thuận Hóa về
làng Kim Long (huyện Hương Trà, Thừa Thiên), cụ Khôi cũng đến nhập tịch ở huyện
ấy và được chúa Nguyễn cho đổi thành họ Nguyễn khoa ( Ý
chúa, sẽ là dòng họ khoa bảng sau này) .
Và quả thật từ đó, con cháu
họ Nguyễn Khoa thay nhau làm quan cho
các chúa Nguyễn.
- Cụ Nguyễn Khoa Danh (1632-1697), con cụ Khôi, tước Cảnh Lộc bá.
- Cụ Nguyễn Khoa Chiêm (
1659 -1736) là con cụ Danh và bà Lê Thị Am. Là con rể của ngài Tham chính chánh đoán sự Trần Đình Ân. Ông
được cha vợ giới thiệu với chúa Nguyễn Phúc Chu và được chúa tin dùng. Năm 1724
( Giáp thìn) ,ông nhận chức Tham chính chánh đoán sự thay cho cha vợ tuổi già.
Ông cũng là một danh sĩ giỏi thơ văn, là tác giả cuốn Nam triều công nghiệp
chí, soạn vào năm 1719.
Và con cháu họ
Nguyễn Khoa sau này đều là những đại thần có công trong sự nghiệp phò chúa ,
không thua kém gì con cháu họ Trần Đình:
-
Nguyễn Khoa Đăng ( 1690-1725): Làm
đến chức Nội Tán kiêm Án Sát Sứ, Tổng Tri Quân Quốc Trọng Sự, tước Diên Tường
hầu. Nổi danh là người mưu lược và đức độ. Hưởng dương 35 tuổi.
-
Nguyễn Khoa Thuyên (1724-1789): là
võ tướng đời chúa Nguyễn Phúc Thuần. Làm đến chức Tham chính coi bộ Hộ và bộ
Binh.
-
Nguyễn Khoa Kiên (?-1775): Là võ
tướng nổi tiếng trí dũng, người đời xưng tụng là “ Triệu Tử Long”. Sau lần phò
chúa vào Gia Định, ông bị quân Tây Sơn bắt giết. Chúa Nguyễn Phúc Ánh vô cùng
thương tiếc và phong tước Kiệt tiết Công thần, Chiêu dũng Tướng quân.
- Nguyễn Khoa Minh ( 1778-1837): Làm
Thượng thư bộ Lễ, tước Thành Mỹ Hầu.
- Nguyễn Khoa Hào ( 1799-1849): Làm tới chức Thượng thư bộ Lễ
và bộ Hình.
- Nguyễn Khoa Toàn (1899-1965): Là Bộ trưởng Giáo Dục và Thông Tin của quốc gia Việt Nam thời vua Bảo Đại, vị
vua cuối cùng của triều đại nhà Nguyễn.
- Nguyễn Khoa Văn ( 1908- 1954): Ông là
nhà báo, nhà lý luận Mác-xít và phê bình văn học Việt Nam. Bút danh là Hải Triều , nổi danh với cuộc bút chiến
“ Nghệ thuật vị nghệ thuật hay vị nhân sinh”, “ Duy tâm hay duy vật” xảy ra ở giai đoạn
1930-1945 với những cây bút đương thời nổi tiếng khác như Thiếu Sơn, Phan Khôi,
Trương Tửu..
-
Nguyễn Khoa Điềm ( sinh năm 1943):
Là nhà thơ nổi tiếng. Là bộ trưởng bộ Văn hóa - Thông tin. ông có nhiều tập thơ
đạt giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam như: Ngôi nhà có ngọn lửa ấm ( 1986), Cõi
lặng (2007)...
- Nguyễn Khoa Nam (1927 - 1975): Là tướng lĩnh Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Thiếu tướng. Từng đảm trách Tư lệnh một trong 4 Quân đoàn và
Quân khu 4 của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Trong sự kiện
ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông đã tự sát.
Hai họ Trần đình và Nguyễn khoa đến nay vẫn giữ tình thông gia như thuở ngàn xưa. Hằng
năm đến ngày giỗ chạp , hai họ đều
đến viếng thăm nhau thâm tình...
(4) Tiên Sơn thi tập: Là một phần trong bộ sách Tiên Sơn chủ nhân toàn tập( 19
cuốn) gồm các loại Văn, Sớ, Biểu .Tiên sơn thi tập là tập thơ
chép tay, viết bằng chữ Hán . Có khoảng 260 bài thơ, chủ yếu theo thể Đường luật .Tạm chia theo 2 phần Xướng họa và
Vịnh cảnh, vịnh sự, vịnh người... Hiện vẫn chưa được phiên âm và dịch ra thơ
toàn bộ. Nghe nói cụ Trần Đình Tài ( cháu đời thứ 5 của ngài Trần Đình Túc),
định cư ở Mỹ đang trăn trở xúc tiến phổ dịch và in ấn, nhưng vẫn chưa có kết
quả.
Thật ra trong thời buổi này, kiếm cho ra một vị uyên thâm về Hán học, có một tâm hồn thi ca
đồng điệu với người xưa và không còn vướng bận chuyện cơm áo để chuyên tâm vào
phổ dịch cho Tiên Sơn thi tập ,quả là..
gần như không thể !
Có vài vị tâm huyết phổ dịch như Linh Đàm, Hạ
Thái Trần Quốc Phiên cố gắng, nhưng vẫn không quá 10 bài!
Noi gương các vị, bằng tình yêu và sức mọn ,
bằng niềm hoài vọng và cảm phục với tổ tiên, dựa vào phiên bản của Linh Đàm
,tôi thử... một bài! Trân trọng giới thiệu mọi người:
辛未元旦識筆
和風淑氣遍東西
明媚江山入品題
邊澗王春齊慶節
蒸民夀域喜同躋
尋芳未暇登梅嶺
賞勝剛逢過竹批
遥憶京中随鷺序
重賡閎雅咏鳬鷖
陳廷粛
( Trích Tiên Sơn thi tập)
TÂN MÙI NGUYÊN ĐÁN THỨC BÚT
Hòa phong thục khí biến đông
tây
Minh mị giang sơn nhập phẩm
đề
Biên giản vương xuân tề khánh
tiết
Chưng dân thọ vực hỷ đồng tê
Tầm phương vị hạ đăng Mai
Lãnh
Thưởng thắng cương phùng quá
Trúc Khê
Dao ức kinh trung tùy lộ tự
Trùng canh hoành nhã vịnh phù
ê!
( Linh Đàm phiên bản)
XUÂN TÂN MÙI KHAI BÚT
Một buổi chiều tây , gió thuận hòa
Lòng xuân xao động, bước chân ra
Ngắm
núi, nhìn non mừng tiết mới
Làng
xóm yên vui khói lượn nhòa.
Hồn
có lần mơ lên Mai Lãnh
Trúc
Khê mới đó đã bao lần…
Ngưỡng
vọng kinh thành về phương ấy
Cánh cò thanh thoát một đường
bay !
Bàng Lư
dịch.